Người bị bạo lực gia đình được chi hỗ trợ từ ngày 25/12/2023 là thông tin mới quy định tại Nghị định 76/2023 Chính phủ ban hành mới đây.
Người bị bạo lực gia đình được chi hỗ trợ từ ngày 25/12/2023
Đầu tháng 11 Chính phủ đã ban hành Nghị định 76/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Một trong những quy định nổi bật được áp dụng từ 25/12/2023 tại Nghị định này là người bị bạo lực gia đình sẽ được chi hỗ trợ.
Cụ thể tại Điều 38 Nghị định 76/2023/NĐ-CP quy định về việc chi hỗ trợ cho người bị bạo lực gia đình.
Theo đó, việc hỗ trợ chi phí tư vấn tâm lý, cung cấp kỹ năng ứng phó với bạo lực gia đình do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện tư vấn cho người bị bạo lực gia đình, người có hành vi bạo lực gia đình.
Bên cạnh đó, người bị bạo lực gia đình được hỗ trợ nhu cầu thiết yếu khi thực hiện cấm tiếp xúc, việc hỗ trợ áp dụng như quy định đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
Trong trường hợp người bị bạo lực gia đình bị tổn hại sức khỏe được chăm sóc, điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, việc thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh thực hiện theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
Đối với cơ sở khám chữa bệnh theo quy định tại Điều 37 Luật Phòng chống bạo lực gia đình có trách nhiệm thực hiện việc chăm sóc, điều trị cho người bệnh là người bị bạo lực gia đình.
Với cơ sở khám chữa bệnh công lập, tùy theo điều kiện thực tế bố trí nơi tạm lánh cho người bệnh là người bị bạo lực gia đình trong thời gian không quá 01 ngày theo yêu cầu của người bị bạo lực gia đình.
Như vậy, từ ngày 25/12/2025 người bị bạo lực gia đình được hỗ trợ một phần chi phí tư vấn tâm lý. Mức hỗ trợ do UBND cấp tỉnh quyết định.
Đồng thời được hỗ trợ nhu cầu thiết yếu khi người bị bạo lực gia đình thực hiện cấm tiếp xúc, áp dụng như với đối tượng bảo trợ xã hội. Hiện nay, mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP là 360.000 đồng/tháng.
Người bị bạo hành gia đình sẽ được chi hỗ trợ phí tư vấn.
Người bị bạo lực gia đình có những quyền gì?
Điều 9 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định các quyền của người bị bạo lực gia đình như sau:
Thứ nhất, người bị bạo lực gia đình co quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cũng như cá nhân có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích khác…
Thứ hai, được yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ
Thứ ba, được bố trí nơi tạm lánh, giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình
Thứ tư, được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với bạo lực gia đình, trợ giúp pháp lý và trợ giúp xã hội theo quy định của pháp luật;
Thứ năm, được yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình khắc phục hậu quả, bồi thường tổn hại về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thiệt hại về tài sản;
Thứ sáu, được thông tin về quyền và nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, xử lý hành vi bạo lực gia đình;
Thứ bảy, được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình;
Và thứ tám là các quyền khác theo quy định của pháp luật có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.
Căn cứ Điều 19 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có thể báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình bằng các hình thức: Gọi điện, nhắn tin; Gửi đơn, thư; Trực tiếp báo tin đến một trong các nơi: - UBND cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình; - Cơ quan Công an, Đồn Biên phòng gần nơi xảy ra hành vi - Cơ sở giáo dục nơi người bị bạo lực gia đình là người học; - Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư nơi xảy ra hành vi - Người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã nơi xảy ra hành vi - Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình. |
Trên đây là thông tin giải đáp cho vướng mắc sẽ bỏ giấy chuyển tuyến BHYT có đúng không? Nếu còn thắc mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ, giải đáp sớm nhất.