hieuluat

Nghị quyết 101/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2014

  • Thuộc tính văn bản

    Cơ quan ban hành:Chính phủSố công báo:51&52-01/2015
    Số hiệu:101/NQ-CPNgày đăng công báo:13/01/2015
    Loại văn bản:Nghị quyếtNgười ký:Nguyễn Tấn Dũng
    Ngày ban hành:31/12/2014Hết hiệu lực:Đang cập nhật
    Áp dụng:31/12/2014Tình trạng hiệu lực:Còn Hiệu lực
    Lĩnh vực:Chính sách
  • CHÍNH PHỦ
    -------
    Số: 101/NQ-CP
    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
    ------------------
    Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2014
     
     
    NGHỊ QUYẾT
    PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 12 NĂM 2014
    -----------------
    CHÍNH PHỦ
     
     
    Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
    Căn cứ Nghị định số 08/2012/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
    Trên cơ sở thảo luận của các thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp tháng 12 năm 2014, tổ chức ngày 29 và 30 tháng 12 năm 2014,
     
    QUYẾT NGHỊ:
     
     
    1. Về kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015
    Chính phủ thống nhất đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2014 có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Cùng với việc điều hành thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu kế hoạch, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ dài hạn, nhất là tái cơ cấu kinh tế, thực hiện các đột phá chiến lược; đồng thời tập trung nhiều thời gian, nguồn lực kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo đảm hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
    Trong chỉ đạo, điều hành, Chính phủ luôn tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng, Quốc hội; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể; thực hiện đúng Quy chế làm việc của Chính phủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò tập thể gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân từng thành viên Chính phủ trước Đảng, trước Quốc hội, Chính phủ và Nhân dân.
    Trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ thường xuyên kiểm điểm đánh giá tình hình, kiên trì thực hiện các mục tiêu đề ra, đồng thời linh hoạt, quyết liệt trong điều hành, bảo đảm tính cân đối tổng thể giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài. Tích cực đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành sát với tình hình thực tế; đề cao kỷ luật, kỷ cương; chú trọng công tác dự báo; lắng nghe, coi trọng phản biện xã hội; tăng cường tiếp xúc đối thoại, kịp thời tháo gỡ vướng mắc bằng những quyết sách phù hợp, được dư luận đánh giá cao, biểu thị sự tin tưởng vào nỗ lực của Chính phủ, trong việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 chuyển biến tích cực, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức kế hoạch. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 5,98%, cao hơn hai năm trước và vượt mục tiêu đề ra. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp. Mặt bằng lãi suất giảm. Tăng trưởng tín dụng đạt kế hoạch đề ra; tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Xuất khẩu duy trì đã tăng trưởng cao, là năm thứ ba liên tục có xuất siêu, đáng chú ý là xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước có sự phục hồi mạnh. Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể tiếp tục thặng dư. Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng khá. Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tăng. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi đạt khá. Thu ngân sách nhà nước vượt kế hoạch. Nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn cho phép. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân được cải thiện. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đạt nhiều kết quả tích cực; hiệu quả, năng suất, sức cạnh tranh, môi trường kinh doanh từng bước được cải thiện. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chú trọng. Chủ quyền quốc gia được giữ vững; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông có tiến bộ. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt kết quả, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, tranh thủ nguồn lực quốc tế phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích quốc gia cũng như lợi ích chính đáng của công dân và kiều bào ta.
    Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế: Nợ công còn cao, cơ cấu chi ngân sách chưa hợp lý. Đời sống của một bộ phận nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo ở nhiều nơi chưa thực sự bền vững. Tình hình cháy nổ, tội phạm, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp. Kỷ luật, kỷ cương gắn với công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm còn chưa đủ nghiêm; quan hệ phối hợp trong xử lý công việc còn thiếu chặt chẽ và đồng bộ; trách nhiệm công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức còn thấp; khả năng phân tích, dự báo, nắm bắt tình hình chưa theo kịp yêu cầu thực tế; việc tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính sách có nơi, có lúc còn chưa quyết liệt; chưa tích cực chuẩn bị để tranh thủ hiệu quả, cơ hội thuận lợi của các thỏa thuận thương mại quốc tế... đòi hỏi cần phải tập trung khắc phục trong thời gian tới.
    Giao Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ và ý kiến tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương, hoàn chỉnh Báo cáo kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành năm 2014 và Chương trình công tác năm 2015 của Chính phủ để các Bộ, cơ quan, địa phương triển khai thực hiện.
    Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ và ý kiến tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương hoàn chỉnh và ban hành báo cáo về công tác cải cách hành chính năm 2014; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí năm 2014. Đồng thời, tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác cải cách hành chính; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong năm 2015 tạo chuyển biến rõ nét.
    Các Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức trách, nhiệm vụ, tổ chức rà soát, kiểm điểm, rút kinh nghiệm; khẩn trương khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác chỉ đạo, điều hành gắn với việc triển khai hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 của Bộ, cơ quan, địa phương. Quyết tâm đạt mục tiêu hằng năm mỗi tỉnh, thành phố phải giảm tai nạn giao thông trên cả 03 tiêu chí từ 5% đến 10%. Đồng thời, đẩy mạnh công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất hàng giả, nhất là tại các trung tâm kinh tế và các tỉnh biên giới.
    Giao Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ và ý kiến tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương, khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015.
    Bước sang năm 2015 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011- 2015, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém; tranh thủ những yếu tố thuận lợi, khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, chủ động bám sát Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ khẩn trương xây dựng, ban hành và triển khai chương trình, kế hoạch hành động cụ thể; tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ bằng các giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015 ngay từ đầu năm với tinh thần trách nhiệm cao nhất, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, nỗ lực thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.
    2. Về tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2014; tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2014
    a) Về tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2014
    Trong năm 2014, công tác xây dựng thể chế là một trong những nhiệm vụ được ưu tiên thực hiện, đáp ứng kịp thời yêu cầu cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013. Việc nghiên cứu, soạn thảo, trình các dự án luật, pháp lệnh về tổ chức bộ máy nhà nước và phục vụ tái cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 cơ bản đạt được mục tiêu, định hướng đề ra. Công tác thẩm định, thẩm tra cũng tiếp tục được đổi mới, thu hút sự tham gia đóng góp ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các dự án luật, pháp lệnh, góp phần nâng cao chất lượng các văn bản.
    Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng phải xin lùi tiến độ trình một số dự án luật; việc chỉnh lý, hoàn thiện đối với một số dự án luật, pháp lệnh sau khi được Chính phủ thông qua còn chậm, chưa bảo đảm tiến độ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định; công tác phối hợp trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo dự án luật, pháp lệnh giữa các cơ quan của Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội còn thiếu chặt chẽ.
    Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tập trung nguồn lực để nghiên cứu, soạn thảo, bảo đảm chất lượng, tiến độ, tính khả thi của các dự án luật, pháp lệnh theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015. Đặc biệt, cần xây dựng, báo cáo Chính phủ việc xây dựng, trình dự án Luật biểu tình và dự án Luật tiếp cận thông tin để Chính phủ xem xét, quyết định cụ thể. Khẩn trương hoàn thiện hồ sơ các dự án luật, pháp lệnh đề nghị đưa vào Chương trình năm 2016 gửi Bộ Tư pháp trước ngày 07 tháng 01 năm 2015 để tổng hợp, trình Chính phủ cho ý kiến tại phiên họp thường kỳ tháng 01 năm 2015.
    b) Về tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2014
    Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2014 có sự chuyển biến rõ rệt. Tình trạng nợ đọng văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã được khắc phục cơ bản, đến cuối năm số lượng văn bản nợ đọng còn 06 văn bản, ít nhất trong hơn 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng nhiều văn bản quy định chi tiết không được ban hành đúng tiến độ quy định để bảo đảm có hiệu lực đồng thời với luật, pháp lệnh.
    Nhiệm vụ xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh trong năm 2015 là rất nặng nề, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phải thực hiện nghiêm túc các giải pháp đã được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đề ra về đẩy nhanh tiến độ và bảo đảm chất lượng xây dựng, ban hành, khắc phục triệt để tình trạng nợ đọng văn bản; trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, xác định rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong việc triển khai nghiên cứu, soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh thuộc Bộ, cơ quan mình; tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ của đơn vị pháp chế trực thuộc.
    3. Về việc lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
    Chính phủ đồng ý với đề xuất của Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) nhằm phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ của Nhân dân trong việc góp ý vào nội dung dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được tiến hành rộng rãi, dân chủ, khoa học; bảo đảm tiết kiệm, thiết thực, tránh hình thức; tập hợp đầy đủ, chính xác, khách quan, trung thực và nghiên cứu tiếp thu, giải trình nghiêm túc để hoàn thiện dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
    4. Về tình hình thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
    Chính phủ đánh giá: Với sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc triển khai Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2014, nhiều Bộ, cơ quan, địa phương đã tích cực, chủ động thực hiện có kết quả phần lớn các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm mà Nghị quyết số 19/NQ-CP đã đề ra trong năm 2014 - 2015, từng bước cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, còn một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa triển khai quyết liệt, bám sát các chỉ tiêu, cách thức thực hiện như đã được chỉ ra trong Nghị quyết.
    Để tiếp tục thực hiện mạnh mẽ, nhất quán và triệt để Nghị quyết số 19/NQ-CP, bảo đảm đến hết năm 2015 chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới tối thiểu bằng ASEAN 6, các Bộ, cơ quan, địa phương cần tiếp tục củng cố, duy trì tính bền vững của các kết quả đã đạt được về chỉ số nộp thuế, nộp bảo hiểm xã hội, khởi sự kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư và tiếp cận điện. Chú trọng cải cách thể chế nhằm cải thiện chỉ số về thể chế, đồng thời công bố công khai các chỉ số cải cách hành chính. Tập trung thực hiện cải cách chỉ số đối với 5 tiêu chí chưa được thực hiện, gồm: cấp phép xây dựng; quyền sở hữu tài sản; tiếp cận tín dụng; thực thi hợp đồng; xử lý doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
    Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong tháng 02 năm 2015. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ được phân công rà soát các thủ tục hành chính để sửa đổi, bổ sung bằng các Thông tư, Thông tư liên tịch hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết trong trường hợp vượt thẩm quyền; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện, tạo chuyển biến tích cực. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP, coi nhiệm vụ cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của mỗi Bộ, ngành, địa phương trong năm 2015 và các năm tiếp theo.
    5. Về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015
    Trong bối cảnh tình hình kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn, tổng công ty vẫn được duy trì, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới, không nắm bắt kịp thời nhu cầu phát triển thị trường, xu thế hội nhập, chưa quản lý, giám sát được các nguồn lực được giao dẫn đến hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
    Để tăng cường giám sát, kiểm tra việc đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, khắc phục và chấn chỉnh việc doanh nghiệp sử dụng vốn, tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh dàn trải, không đúng mục tiêu, chiến lược và để bảo đảm công khai, minh bạch, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy định chi tiết các Luật có liên quan mới được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8. Các doanh nghiệp nhà nước cần triển khai quyết liệt việc tái cơ cấu doanh nghiệp theo đề án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; xây dựng và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tiết giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm nhằm gia tăng lợi nhuận.
    Năm 2014, công tác tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước có nhiều chuyển biến tích cực. Các cơ chế, chính sách về đổi mới tổ chức, hoạt động và quản lý, sắp xếp, cổ phần hóa đã được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, tạo khung pháp lý thuận lợi cho việc triển khai thực hiện, số doanh nghiệp sắp xếp, cổ phần hóa và thoái số vốn nhà nước đạt cao so với năm 2013, tạo tiền đề quan trọng để hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa giai đoạn 2014 - 2015. Tuy nhiên, một số cơ chế, chính sách chưa được sửa đổi, ban hành kịp thời. Số doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn còn chưa đạt kế hoạch đề ra. Một số Bộ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty chưa triển khai quyết liệt kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn đã được phê duyệt.
    Để tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, phấn đấu hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đến năm 2015, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chỉ đạo quyết liệt hơn nữa để đạt kế hoạch đã đề ra, đặc biệt là cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Căn cứ tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, rà soát, bổ sung doanh nghiệp cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước sau năm 2015 trong quý I năm 2015, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện.
    Các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có công ty nông, lâm nghiệp chỉ đạo các công ty rà soát chức năng, nhiệm vụ, xây dựng phương án tổng thể sắp xếp, báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
    Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cùng các cơ quan liên quan đánh giá toàn diện công tác tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 trong quý IV năm 2015.
    6. Về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần
    Chính phủ thống nhất: Mở rộng phạm vi chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện thành công ty cổ phần, trong đó cần chú ý đặc thù và có loại hình phù hợp đối với các đơn vị thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục, đào tạo. Có chính sách ưu đãi hơn cho người lao động là các chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, chủ đề tài nghiên cứu khoa học, có bằng phát minh sáng chế đã được áp dụng, đang làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi. Có quy định đặc thù về xác định giá trị doanh nghiệp, không tính giá trị thương hiệu và tiềm năng phát triển vào giá trị đơn vị sự nghiệp công lập khi thực hiện chuyển đổi để khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần.
    Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành trong quý I năm 2015.
    7. Về đề xuất sử dụng các chỉ tiêu giảm nghèo, việc làm và lao động qua đào tạo trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm giai đoạn 2016-2020
    Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính nghiên cứu, trao đổi với các Ủy ban có liên quan của Quốc hội về việc sử dụng các chỉ tiêu nói trên.
    Trước mắt tiếp tục sử dụng các chỉ tiêu: mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (không tính tỷ lệ lạm phát hằng năm vào mức chuẩn nghèo); tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ lao động qua đào tạo, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ theo quy định hiện hành.
    8. Về dự thảo Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc
    Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự thảo Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
    9. Về hoạt động của các tổ chức giám định pháp y tâm thần
    Chính phủ thống nhất: Các tổ chức giám định pháp y tâm thần ở địa phương được thành lập và hoạt động theo Pháp lệnh giám định tư pháp được tiếp tục thực hiện công tác giám định pháp y tâm thần đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2015.
    Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, các địa phương và các cơ quan liên quan khẩn trương thành lập các Trung tâm pháp y tâm thần khu vực theo quy định của Luật giám định tư pháp.
    10. Về dự án Luật tạm giữ, tạm giam
    Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật. Giao Bộ trưởng Bộ Công an thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật này.
    11. Về dự án Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự
    Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình Quốc hội.
    12. Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hàng hải
    Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật. Giao Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật này.
    13. Về việc thực hiện Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2014 về nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra
    Chính phủ thống nhất chưa thực hiện các quy định tại điểm b và điểm c Khoản 3 Điều 6 của Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2014 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với Bộ Công Thương kiểm tra, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện, báo cáo Thủ tướng Chính phủ giải quyết những vướng mắc phát sinh (nếu có) để từng bước nâng cao chất lượng và giá trị các sản phẩm cá tra của nước ta trên thị trường quốc tế và trong nước./.
     

     Nơi nhận:
    - Ban Bí thư Trung ương Đảng;
    - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
    - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
    - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
    - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
    - Văn phòng Tổng Bí thư;
    - Văn phòng Chủ tịch nước;
    - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
    - Văn phòng Quốc hội;
    - Tòa án nhân dân tối cao;
    - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
    - Kiểm toán Nhà nước;
    - Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia;
    - Ngân hàng Chính sách xã hội;
    - Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
    - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
    - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
    - VPCP: BTCN, các PCN; Trợ lý của TTgCP, PTTg; các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo, TGĐ Cổng TTĐT CP;
    - Lưu: Văn thư, TH (3b).
    TM. CHÍNH PHỦ
    THỦ TƯỚNG




    Nguyễn Tấn Dũng
  • Loại liên kết văn bản
    01
    Luật Tổ chức Chính phủ
    Ban hành: 25/12/2001 Hiệu lực: 25/12/2001 Tình trạng: Hết Hiệu lực
    Văn bản căn cứ
    02
    Nghị định 08/2012/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ
    Ban hành: 16/02/2012 Hiệu lực: 15/04/2012 Tình trạng: Hết Hiệu lực
    Văn bản căn cứ
    03
    Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
    Ban hành: 18/03/2014 Hiệu lực: 18/03/2014 Tình trạng: Còn Hiệu lực
    Văn bản dẫn chiếu
    04
    Nghị định 36/2014/NĐ-CP của Chính phủ về việc nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá Tra
    Ban hành: 29/04/2014 Hiệu lực: 20/06/2014 Tình trạng: Hết Hiệu lực
    Văn bản dẫn chiếu
  • Hiệu lực văn bản

    Hiệu lực liên quan

    Văn bản chưa có liên quan hiệu lực
  • Văn bản đang xem

    Nghị quyết 101/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2014

    In lược đồ
    Cơ quan ban hành:Chính phủ
    Số hiệu:101/NQ-CP
    Loại văn bản:Nghị quyết
    Ngày ban hành:31/12/2014
    Hiệu lực:31/12/2014
    Lĩnh vực:Chính sách
    Ngày công báo:13/01/2015
    Số công báo:51&52-01/2015
    Người ký:Nguyễn Tấn Dũng
    Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
    Tình trạng:Còn Hiệu lực
  • File văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Văn bản liên quan

Văn bản mới

X