Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: | 259 & 260 - 05/2009 |
Số hiệu: | 20/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | 20/05/2009 |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 11/05/2009 | Hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | 11/05/2009 | Tình trạng hiệu lực: | Còn Hiệu lực |
Lĩnh vực: | Chính sách, Chính sách |
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 20/NQ-CP NGÀY 11 THÁNG 05 NĂM 2009
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 4 NĂM 2009
Trong hai ngày 04 - 05 tháng 5 năm 2009, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 4 năm 2009, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau đây:
1. Chính phủ thảo luận báo cáo về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO; báo cáo đánh giá tác động sau 02 năm Việt Nam gia nhập WTO do Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình.
Chính phủ thống nhất nhận định, sau 02 năm Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, cụ thể của Chính phủ và các địa phương, với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực và có ý nghĩa quan trọng trên rất nhiều mặt. Đặc biệt, nền kinh tế duy trì được tăng trưởng khá đi liền với từng bước nâng cao sức cạnh tranh, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều tăng cao hơn so với trước hội nhập; kiểm soát và giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho tăng trưởng; bảo đảm tốt an sinh xã hội và giữ vững an ninh, quốc phòng; hệ thống doanh nghiệp có bước trưởng thành trong kinh tế thị trường và tích luỹ thêm kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế... góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, thời gian còn ngắn, phải tiếp tục theo dõi, đánh giá đầy đủ hơn. Trên một số mặt, việc triển khai các nhiệm vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập nói chung và những mục tiêu của Chương trình hành động của Chính phủ nói riêng; chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành về cơ bản, nhưng chưa hoàn thiện; quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp yêu cầu; việc xây dựng cơ chế nhận biết, đánh giá và dự báo tình hình trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới còn yếu; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; nguồn nhân lực qua đào tạo còn thiếu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá còn nhiều yếu kém... Đây là những khó khăn, thách thức của ta trong hội nhập, cần phải phấn đấu quyết liệt hơn.
Từ những kết quả nêu trên, Chính phủ chỉ ra những bài học kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành: thứ nhất, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để hội nhập và phát triển đất nước; thứ hai, phải tích cực, chủ động hội nhập đi liền với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; coi nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cùng với phát triển kinh tế thị trường nhưng phải đi liền với tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước để bảo đảm ổn định vĩ mô và phát triển bền vững; thứ tư, phải phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ tài nguyên, môi trường, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thường xuyên theo dõi, báo cáo, phản ánh đầy đủ, chính xác tình hình thực hiện Chương trình hành động; tiếp tục thực hiện tốt các nhóm giải pháp đã đề ra nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên và góp phần ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội...; tập trung nghiên cứu sâu hơn nữa để chủ động xử lý một số vấn đề đặt ra, như: tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về WTO; hoàn thiện về tổ chức cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp thương mại, quản lý thị trưòng; tập trung làm tốt công tác phát triển nguồn nhân lực.
Giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, trình Bộ Chính trị; tổ chức đánh giá tổng thể kết quả thực hiện những nội dung trong Chương trình hành động của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương để kịp thời có những điều chỉnh cần thiết, phù hợp trong việc xử lý những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Các bộ, ngành, địa phương sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện ở ngành, địa phương mình và đề xuất các biện pháp cụ thể tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng.
2. Chính phủ nghe và thảo luận các Đề án: về đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2009 – 2015 và phương hướng đến năm 2020; đẩy mạnh đào tạo cán bộ, công chức xã đến năm 2020 phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trình.
Thời gian qua, lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và đồng đều giữa các vùng; đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao… Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là chất lượng lao động ở nông thôn còn quá thấp, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa được coi trọng đúng mức và có nhiều hạn chế… Mặc dù đã được Trung ương, địa phương quan tâm và có những chuyển biến tích cực, nhưng đứng trước nhiệm vụ, thách thức đặt ra từ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong tình hình mới, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nội vụ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, khẩn trương hoàn chỉnh Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, bao gồm cả đẩy mạnh đào tạo cán bộ, công chức xã phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10 tháng 6 năm 2009. Đề án cần làm rõ hơn một số nội dung về đối tượng đào tạo; các chính sách ưu đãi cho các đối tượng học nghề, cơ sở đào tạo nghề; mô hình dạy nghề; làm rõ vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, sự tham gia của xã hội...
3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ báo cáo về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết Quốc hội về thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Chính phủ thống nhất đánh giá, đến nay, đã hoàn thành việc chuẩn bị và đã bắt đầu thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường: các văn bản pháp luật liên quan đã được ban hành đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương thực hiện thí điểm triển khai các bước tiếp theo; các bộ, ngành Trung ương đã quán triệt, hướng dẫn các địa phương những nội dung cần thiết; công tác tuyên truyền đã được chú trọng, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm rõ và đồng tình ủng hộ chủ trương của Đảng, Nhà nước; các địa phương thực hiện thí điểm đã chủ động triển khai khá đồng bộ, toàn diện các nội dung, kế hoạch đề ra và bước đầu đạt được kết quả tích cực.
Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành Trung ương tiếp tục bám sát Kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tăng cường phối hợp chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các địa phương thực hiện các bước, các nội dung cần thiết khi triển khai thí điểm; theo dõi sát tình hình, kịp thời điều chỉnh, xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện; đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt các văn bản của Đảng, Nhà nước, những nội dung, bước đi, kết quả thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường... Các địa phương thực hiện thí điểm cần chú trọng công tác nhân sự sắp tới của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân, có kế hoạch tập huấn cho các chức danh của Uỷ ban nhân dân về những nhiệm vụ, quyền hạn mới của Uỷ ban nhân dân; thường xuyên báo cáo kịp thời tiến độ thực hiện; định kỳ tổ chức đánh giá kết quả thực hiện, kiến nghị về những vấn đề phát sinh mới để xem xét, giải quyết...
4. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự thảo Nghị định.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở pháp lý để xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách khuyến khích, trợ giúp phát triển, góp phần thúc đẩy sự ra đời, phát triển và nâng cao vai trò các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Thời gian qua, nhiều cơ chế, chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được thực hiện, tạo điều kiện bước đầu hình thành hệ thống các cơ quan phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa từ Trung ương đến địa phương, huy động các nguồn lực trợ giúp cụ thể, thiết thực, đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Nghị định 90/2001/NĐ-CP đã bộc lộ một số hạn chế cần được nghiên cứu thay thế, sửa đổi, bổ sung nhằm tạo lập một khung pháp lý và cơ chế, chính sách đủ mạnh, hoàn thiện hơn, phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta và thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành; trên cơ sở Nghị định này, khẩn trương dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về các cơ chế, chính sách cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình Chính phủ ban hành.
5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông trình Dự án Luật Bưu chính; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự thảo Luật.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một hệ thống pháp luật về bưu chính bao gồm Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các Nghị định quy định về dịch vụ bưu chính và chuyển phát, nhờ đó đã bước đầu góp phần ổn định và phát triển thị trường bưu chính, cung ứng dịch vụ bưu chính phục vụ nhu cầu của người dân; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh trong môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, phát huy được quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, hệ thống pháp luật về bưu chính đã bộc lộ những bất cập, chồng chéo và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường bưu chính trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế của nước ta. Do đó, việc xây dựng và ban hành Luật Bưu chính là cần thiết, nhằm tăng cường, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bưu chính và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Bưu chính; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự án Luật này.
6. Chính phủ đã thảo luận các báo cáo về: tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2009, dự báo tình hình kinh tế trong nước và thế giới và những vấn đề cần tập trung chỉ đạo; kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ; diễn biến tình hình dịch cúm A/H1N1; tình hình thực hiện công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội; tình hình, kết quả thực hiện Đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính tại các bộ, ngành, địa phương; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tháng 4/2009; công tác cải cách hành chính tháng 4/2009; tình hình thực hiện chương trình công tác tháng 4/2009, các quyết nghị của Chính phủ từ phiên họp Chính phủ tháng 3/2009 do Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Nội vụ, Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình.
Chính phủ thống nhất nhận định, trong tháng 4/2009, mặc dù tiếp tục chịu tác động tiêu cực rất lớn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, nhưng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, tập trung của Chính phủ, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và của toàn dân, tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm tiếp tục có chuyển biến tích cực trên hầu hết các mặt: kinh tế vĩ mô tiếp tục được kiểm soát và giữ ổn định; sản xuất công nghiệp tăng liên tục trong 3 tháng qua; sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có nhiều thuận lợi, phát triển ổn định và đạt kết quả khá; lĩnh vực dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực; kim ngạch xuất khẩu 4 tháng tương đương với cùng kỳ năm 2007 là một nỗ lực rất lớn trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn; thị trường trong nước khá dần lên; chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng hợp lý 0,35% so với cuối năm 2008; thu ngân sách nhà nước đạt tốc độ tăng khá; các lĩnh vực giáo dục, y tế và an sinh xã hội đều đạt được kết quả tích cực; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được bảo đảm ...
Thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định nhằm triển khai các nhóm giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xuất khẩu; kích cầu đầu tư và tiêu dùng; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập các đoàn công tác của Chính phủ đi kiểm tra, đôn đốc thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nhìn chung, các bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của các bộ, ngành. Nghị quyết đi vào cuộc sống được sự đón nhận của cộng đồng doanh nghiệp, sự ủng hộ của các tầng lớp xã hội và phát huy tác dụng tích cực, góp phần đạt được các mục tiêu đã đề ra. Chính phủ đánh giá cao những nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân trong việc triển khai các chủ trương, chính sách. Tuy nhiên, một số cơ chế, chính sách, giải pháp còn chậm đi vào cuộc sống, nhất là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Mặc dù gần đây có một số dấu hiệu khả quan nhờ sự phối hợp của các nước trong nỗ lực chống khủng hoảng toàn cầu, nhưng nhìn chung, tình hình kinh tế thế giới vẫn còn khó khăn, chưa ra khỏi suy thoái và tiếp tục tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta trên nhiều mặt, nhất là về xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, du lịch...
Để thực hiện được các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 đề ra, Chính phủ yêu cầu:
- Các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện quyết liệt các chủ trương và cơ chế, chính sách đã ban hành; khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các chủ trương và cơ chế, chính sách đã có; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện để kịp thời xử lý, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, đầu tư và thực hiện các cơ chế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo...
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp kết quả kiểm tra ở địa phương về việc thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của các Thành viên Chính phủ, sớm báo cáo Thủ tướng Chính phủ xử lý theo hướng: vướng mắc thuộc thẩm quyền của bộ nào thì chuyển bộ đó giải quyết; vướng mắc vượt quá thẩm quyền xử lý của các bộ thì giao bộ liên quan chủ trì, đề xuất trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
- Bộ Tài chính khẩn trương rà soát các cơ chế, chính sách đã ban hành thuộc lĩnh vực tài chính để xử lý ngay những vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định xử lý các vướng mắc vượt quá thẩm quyền của Bộ; thường xuyên theo dõi, kịp thời đề xuất giải pháp xử lý để bảo đảm tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước theo đúng chỉ tiêu điều chỉnh báo cáo Quốc hội.
- Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo dõi sát và kịp thời có phương án xử lý thích hợp về vấn đề lãi suất, tỷ giá, cán cân thanh toán, khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định; tập trung chỉ đạo các ngân hàng thương mại triển khai thực hiện tốt chính sách hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn lưu động, vốn trung, dài hạn đầu tư mới để phát triển sản xuất - kinh doanh; hỗ trợ lãi suất mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở nông thôn và các chính sách an sinh xã hội...
- Bộ Công Thương kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng tiêu dùng, bảo đảm cân đối xuất nhập khẩu, hạn chế nhập siêu, quản lý tốt thị trường, phòng, chống buôn lậu.
- Các bộ, ngành liên quanh và các địa phương tiếp tục tập trung chỉ đạo triển khai nhanh các chương trình, đề án, dự án, các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội đã có, trong đó đặc biệt quan tâm chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững 61 huyện nghèo; xây dựng nhà ở cho sinh viên, cho công nhân ở các khu công nghiệp tập trung, cho người có thu nhập thấp ở thành thị và người nghèo ở nông thôn; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện, kịp thời xử lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tính toán kỹ phương án phát hành trái phiếu Chính phủ kế hoạch từ năm 2010 đến 2015 trình Thường trực Chính phủ xem xét, đưa vào kế hoạch 5 năm 2011 – 2015; lập phương án triển khai phát hành bổ sung 20.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ trong năm 2009 để bổ sung cho các dự án, công trình trong danh mục theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã triển khai nhưng chưa bố trí đủ vốn, tập trung cho các công trình hoàn thành trong năm 2009 và 2010; bổ sung thêm dự án mới vào danh mục dự án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, ưu tiên cho các dự án về xây dựng ký túc xá cho sinh viên.
Các bộ quản lý chuyên ngành quyết định danh mục và mức vốn bố trí cụ thể cho từng danh mục (kể cả dự án do địa phương quản lý), thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xây dựng phương án phân bổ cụ thể bổ sung vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009, khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý khâu quy hoạch đối với các dự án xây dựng ký túc xá sinh viên; Bộ Xây dựng chỉ đạo thực hiện việc quản lý xây dựng.
- Bộ Y tế tập trung cao nhất nỗ lực để ngăn chặn dịch cúm A/H1N1, có giải pháp tuyên truyền, cảnh báo cho người dân hiểu và biết cách phòng ngừa; giám sát chặt chẽ, phát hiện sớm các trường hợp nhiễm bệnh để cách ly và tập trung xử lý tại chỗ, dứt điểm; kịp thời đề xuất để có phương án đáp ứng đủ nhu cầu về thuốc, thiết bị phục vụ phòng chống cúm A/H1N1.
- Các bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện có kết quả Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính; chú trọng công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng; đặc biệt theo dõi và chủ động phòng chống thiên tai, bão lũ để hạn chế thấp nhất thiệt hại.
- Các Thành viên Chính phủ khẩn trương chuẩn bị các báo cáo được giao để phục vụ kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XII; dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng và thực hiện chương trình công tác, nhất là việc xây dựng thể chế, nâng cao chất lượng và bảo đảm tiến độ soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật.
- Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thông tin đầy đủ, chính xác các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành tựu kinh tế - xã hội đạt được để tiếp tục tạo sự đồng thuận trong xã hội, động viên nhân dân, doanh nghiệp tự tin, tiếp tục thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra; các bộ, ngành, địa phương chủ động cung cấp thông tin cho người dân hiểu và nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và của chính bộ, ngành, địa phương mình./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
Cơ quan ban hành: | Chính phủ |
Số hiệu: | 20/NQ-CP |
Loại văn bản: | Nghị quyết |
Ngày ban hành: | 11/05/2009 |
Hiệu lực: | 11/05/2009 |
Lĩnh vực: | Chính sách, Chính sách |
Ngày công báo: | 20/05/2009 |
Số công báo: | 259 & 260 - 05/2009 |
Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Còn Hiệu lực |
File văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!