Lừa đảo giả danh công an, viện kiểm sát, các nhân viên Nhà nước khác có thẩm quyền để chiếm đoạt tiền của người khác là thủ đoạn không còn mới hiện nay. Việc nhận diện loại tội phạm này và xử lý hình sự ra sao?
Câu hỏi: Chào Luật sư, dạo gần đây, một vài người bạn của tôi nhận được các cuộc gọi hoặc qua mạng xã hội của người tự nhận là công an, kiểm sát viên… và có đe dọa, yêu cầu bạn tôi phải chuyển tiền phạt, chuyển tiền để không bị khởi tố, truy tố trước pháp luật.
Tuy nhiên, sau khi chuyển tiền mới phát hiện ra, những thông tin mà mình nhận được là giả mạo.
Mong Luật sư có thể cung cấp thêm cho tôi và những người bạn của mình được biết về một số thủ đoạn mà các tội phạm lừa đảo giả danh công an, kiểm sát viên… sử dụng phổ biến hiện nay là gì không?
Xử lý hình sự đối với những tội phạm này như thế nào, Luật sư?
Chào bạn, để nhận diện tội phạm lừa đảo giả danh công an, kiểm sát viên,... có thể dựa trên nhiều dấu hiệu khác nhau như hành vi, mục đích,...
Để xử lý tội phạm này, cơ quan chức năng phải dựa trên quy định pháp luật, mức độ vi phạm, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhiều yếu tố khác.
Trong phạm vi bài viết này, HieuLuat sẽ cung cấp cho bạn đọc một số thủ đoạn mà tội phạm lừa đảo giả danh công an, cán bộ Nhà nước hay sử dụng và hình phạt hình sự áp dụng đối với từng đối tượng.
Thủ đoạn lừa đảo giả danh công an như thế nào?
Thủ đoạn lừa đảo giả danh công an được biểu hiện dưới nhiều hình thức, bằng nhiều cách thức khác nhau.
Phương tiện, công cụ hỗ trợ cho các đối tượng này thực hiện hành vi cũng ngày càng tinh vi, hiện đại hơn.
Lừa đảo phòng cháy chữa cháy được biểu hiện ra sao?
Lừa đảo giả danh công an phòng cháy chữa cháy/cán bộ của đơn vị phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ để chiếm đoạt tiền của người khác là một trong những thủ đoạn diễn ra phổ biến hiện nay.
Cách thức mà các đối tượng này sử dụng là gọi điện cho các cơ sở kinh doanh, cơ sở sản xuất hàng hóa như quán ăn, cơ sở lưu trú (nhà nghỉ, khách sạn…), các công ty/doanh nghiệp …, tự giới thiệu là cán bộ thuộc đội phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ thuộc công an tỉnh.
Nội dung của cuộc nói chuyện là thông báo cho các cơ quan, đơn vị này về thời điểm thanh tra, kiểm tra sắp tới của đoàn công tác về phòng cháy chữa cháy.
Đối tượng này yêu cầu cơ sở phải lắp đặt, mua sắm các trang thiết bị về phòng cháy chữa cháy, phải có các giấy tờ chứng nhận về đào tạo phòng cháy chữa cháy và nhiều yêu cầu khác nữa.
Kết quả của cuộc điện thoại là đối tượng yêu cầu các cơ sở kinh doanh, doanh nghiệp… phải mua bộ hồ sơ có liên quan đến nội dung thanh tra, kiểm tra về phòng cháy chữa cháy sắp tới, đồng thời, nhấn mạnh rằng các cơ sở kinh doanh không được phép mua những trang thiết bị phòng cháy chữa cháy của các đơn vị khác.
Lý do đối tượng đưa ra là các trang thiết bị của các cơ sở khác sẽ không đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của đoàn kiểm tra, do vậy, nếu chủ cơ sở mua của đơn vị khác, chắc chắn sẽ bị phạt rất nặng, số tiền phạt có thể lên đến hàng trăm triệu đồng.
Khi được chủ cơ sở kinh doanh đồng ý, nhằm tăng sự tin tưởng cho nạn nhân, các đối tượng lừa đảo sẽ chuyển hàng qua đường bưu điện (chuyển hàng có bảo đảm), thông tin người gửi sẽ ghi đầy đủ thông tin như địa chỉ, số điện thoại, đơn vị cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn cũng như thông tin bên nhận.
Sau khi đã nhận được hàng, cơ sở kinh doanh/chủ quán liên hệ lại theo số điện thoại được ghi trên gói hàng gửi thì được hướng dẫn chuyển khoản tiền hàng qua tài khoản ngân hàng.
Sau khi chuyển khoản, nạn nhân liên hệ lại theo số điện thoại đã được ghi thì không liên hệ được nữa hoặc đã bị khóa sim.
Lúc này, nạn nhân mới phát hiện mình bị lừa. Số điện thoại dùng để liên hệ thường là sim rác, còn số tài khoản ngân hàng là số giả mạo hoặc là số mà đối tượng đánh cắp được từ người khác, được sử dụng để nhận tiền lừa đảo.
Nếu điều tra kỹ hơn, thường sẽ thấy, sau khi tiền được chuyển khoản đến số tài khoản giả mạo/hoặc đánh cắp được sẽ được rút ra/chuyển khoản đến tài khoản khác.
Sự thật là, cơ quan cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ không bán bất cứ tài liệu hay các hồ sơ, trang thiết bị về công tác phòng cháy chữa cháy.
Đồng thời, việc thanh tra, kiểm tra nếu có phải được thông báo bằng văn bản tới các cơ sở lưu trú hoặc nếu là kiểm tra đột xuất phải có quyết định theo quy định của pháp luật.
Kết luận: Điểm mới trong thủ đoạn lừa đảo giả danh công an, cảnh sát phòng cháy chữa cháy là quy trình dẫn dụ, gian dối, tạo cho nạn nhân sự tin tưởng vào vai trò, tư cách của mình.
Đối tượng không yêu cầu nạn nhân phải chuyển tiền cọc, tiền hàng trước mà nạn nhân sẽ được gửi hàng trước, kiểm hàng sau đó mới chuyển tiền. Điều này cũng tạo tâm lý yên tâm, chắc chắn cho nạn nhân về đối tượng.
Tuy nhiên, sau khi đã chuyển tiền thì mọi liên hệ sẽ bị cắt đứt hoàn toàn, đối tượng lợi dụng tâm lý lo sợ thanh tra, sự thiếu hiểu biết về các trang thiết bị phòng cháy chữa cháy để lừa đảo chiếm đoạt tiền.
Lừa đảo phạt nguội qua các hình thức nào?
Lừa đảo phạt nguội là một trong những hình thức mà đối tượng lừa đảo sử dụng nhiều trong thời điểm tình hình dịch covid.
Để đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản, nạn nhân đã sử dụng phần mềm công nghệ cao (giả danh giọng nói qua mạng máy tính), giả số điện thoại hiển thị, giả số điện thoại của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để gọi điện cho nạn nhân.
Cuộc trò chuyện của đối tượng đối với nạn nhân sẽ bao gồm các nội dung thông tin:
Sử dụng phương tiện, công cụ, phần mềm công nghệ cao giả danh nhân viên tổng đài, cán bộ cảnh sát giao thông gọi điện thông báo cho nạn nhân được biết về biên lai xử phạt chưa được nạn nhân đóng nộp hoặc đã gây tai nạn tại thời gian xác định đã quá thời hạn xử lý nên đề nghị nạn nhân phải cung cấp biên lai làm việc để giải quyết, nếu không có biên lai làm việc thì phải cung cấp số căn cước công dân, số tài khoản ngân hàng, số hộ chiếu… để cơ quan cảnh sát giao thông kiểm tra, xử lý, cung cấp bien bản vi phạm…;
Đối tượng yêu cầu nạn nhân phải bấm các phím theo chỉ định để nhận được thông tin về biên lai phạt, số tiền phạt;
Sau khi đã nhấn phím, lấy thông tin về biên lai phạt, số tiền phạt thì nạn nhân được yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin họ tên, số tài khoản ngân hàng, mã OTP của tài khoản ngân hàng của nạn nhân để cơ quan công an xác nhận, đối chiếu;
Nạn nhân sau khi cung cấp họ tên, số tài khoản ngân hàng, mã OTP của ngân hàng thì bị rút tiền khỏi tài khoản ngân hàng của mình;
Nạn nhân liên hệ lại theo số điện thoại đã gọi cho mình thì không thể liên hệ được hoặc số điện thoại không tồn tại;
Đối tượng lừa đảo lợi dụng tâm lý lo sợ, không muốn rắc rối, nhanh chóng xử lý vụ việc để không làm tăng trách nhiệm pháp lý của nạn nhân để chiếm đoạt tài sản.
Hình thức phạt nguội hiện nay là một trong những cách thức được cơ quan công an thử nghiệm áp dụng, từ đó nâng cao hiệu quả xử lý, tiết kiệm thời gian…
Theo đó, các bước để cơ quan công an giao thông thực hiện xử lý phạt nguội gồm:
Thu thập hình ảnh vi phạm (từ phương tiện, kỹ thuật nghiệp vụ hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp…);
Trích xuất hình ảnh vi phạm;
Lập hồ sơ vi phạm, tin thông báo;
Phát hành thông báo cho chủ phương tiện: Người vi phạm/chủ phương tiện mang theo thông báo vi phạm, giấy tờ có liên quan cùng phương tiện vi phạm đến trụ sở cảnh sát giao thông. Người vi phạm/chủ phương tiện ngồi đợi gọi tên, đến lượt làm việc để xem lại hình ảnh phương tiện vi phạm, xác nhận đúng lỗi của mình và cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm, ban hành quyết định xử phạt;
Phối hợp với chủ phương tiện giải quyết vụ việc vi phạm: Việc nộp phạt được thực hiện tại kho bạc Nhà nước hoặc tại ngân hàng được ủy nhiệm thu ngân sách Nhà nước;
Cơ quan công an cập nhật kết quả xử lý vi phạm và kết thúc hồ sơ: Sau khi đã nộp phạt, người vi phạm/chủ phương tiện mang biên lai xác nhận đã nộp phạt quay lại cơ quan công an có thẩm quyền để nhận lại giấy tờ đã tạm giữ và hoàn thành xử phạt.
Kết luận: Lừa đảo giả danh công an yêu cầu nộp phạt vi phạm giao thông bằng hình thức phạt nguội có thủ đoạn như chúng tôi đã trình bày ở trên.
Xử lý tội phạm lừa đảo giả danh công an gọi điện thế nào?
Lừa đảo giả danh công an gọi điện hoặc giả danh kiểm sát viên gọi điện thông báo vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm giao thông, yêu cầu phải chuyển tiền phạt, yêu cầu cung cấp thông tin về số căn cước công dân, số thẻ ngân hàng… nhằm chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn điển hình của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian gần đây.
Về bản chất, các đối tượng này bằng các phương tiện, công cụ, phần mềm máy tính công nghệ cao giả danh giọng nói, giả danh số điện thoại để yêu cầu nạn nhân cung cấp thông tin về tài khoản ngân hàng, mã OTP của tài khoản để tạo ra câu chuyện vi phạm pháp luật khiến nạn nhân lo sợ, dù hoài nghi nhưng vẫn tin tưởng và làm theo yêu cầu.
Từ đó, đối tượng chiếm đoạt tiền trong tài khoản; hoặc yêu cầu nạn nhân phải chuyển một số tiền nhất định để giải quyết vi phạm hành chính (vi phạm giao thông,...) hoặc để không bị truy tố hình sự (trong vụ án hình sự).
Dấu hiệu về hành vi này của các đối tượng lừa đảo giả danh công an có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo đó, hành vi lừa đảo giả danh công an, cán bộ Nhà nước để chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản khác như sau:
Về hành vi: Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác có trị giá từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự, sửa đổi bổ sung 2017;
Chủ thể phạm tội: Người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự;
Lỗi: Lỗi cố ý;
Khách thể: Xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ;
Mức phạt áp dụng đối với tội phạm này nhẹ nhất có thể là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù có thời hạn từ 6 tháng đến 3 năm.
Khung hình phạt nặng nhất được áp dụng đối với tội phạm này là tù chung thân.
Kết luận: Hành vi lừa đảo giả danh công an gọi điện nhằm chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt cơ bản là phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn tối đa 3 năm.
Trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự thì khung hình phạt cao nhất là phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như là phạt tiền, tịch thu tài sản…