Phạm tội chưa đạt bao gồm phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Mức hình phạt đối với người phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hiện nay được quy định thế nào?
Phân biệt phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành
Câu hỏi: Chào HieuLuat, tôi có câu hỏi mong được giải đáp như sau: Làm cách nào có thể phân biệt được phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành? Xin chân thành cảm ơn.
Chào bạn, HieuLuat cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi. Chúng tôi xin giải đáp câu hỏi của bạn như sau:
Trước hết, Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015 quy định phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Dưới góc độ thái độ tâm lí, mức độ thực hiện hành vi của người thực hiện tội phạm, thì phạm tội chưa đạt được chia thành hai loại: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Việc phân biệt cụ thể giữa hai loại này nhằm đánh giá mức độ vi phạm pháp luật hình sự của người phạm tội.
Cụ thể phân biệt phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành như sau:Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành | Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành | |
Giống nhau | - Người phạm tội cố ý thực hiện tội phạm, nhưng đều không có hậu quả xảy ra như ý chí của người phạm tội; - Hậu quả không diễn ra do các yếu tố khách quan, ngoài ý muốn tác động; | |
Khác nhau | - Người phạm tội đã không thực hiện được hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội do các yếu tố khách quan, ngoài ý muốn; - Hậu quả không diễn ra do không thể thực hiện được hết các hành vi phạm tội; | - Người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội của mình để gây hậu quả, không bị ngăn cản; - Hậu quả không diễn ra do sau khi thực hiện toàn bộ những hành vi đã có những yếu tố khách quan, ngoài ý muốn tác động; |
Ví dụ | A dự định giết B bằng 3 phát súng và bắn vào những chỗ trọng yếu của cơ thể. Nhưng mới bắn phát súng thứ 1 vào B thì B kêu cứu. Lúc này, có nhiều người tới ngăn cản A không cho A thực hiện tiếp hành vi, đồng thời, đưa B đi bệnh viện cấp cứu. A không thể tiếp tục được hành vi do bị ngăn cản, B được cấp cứu kịp thời nên không chết. => Trong trường hợp này, A mong muốn phải giết được B nhưng chưa thực hiện được hết hành vi đã dự định (bắn 3 phát súng vào chỗ trọng yếu trên cơ thể) thì đã bị ngăn cản bởi người khác. Hậu quả không mong muốn đối với A là B không chết, A không thực hiện được đầy đủ hành vi mà mình đã dự định từ trước. | C dự định giết D bằng thuốc độc. Sau khi cho D uống hết thuốc độc, A bỏ đi vì tin rằng D sẽ chết. Nhưng không may, liều lượng C cho D uống không đủ để giết người và D lại được cứu chữa kịp thời nên không chết. => Trong trường hợp này, C đã cố ý thực hiện hết các hành vi mà C cho là cần thiết để D phải chết. C bỏ đi vì tin rằng D đã chết, nhưng do yếu tố khách quan mà C không thể lường trước được dẫn đến hậu quả là D không chết (hậu quả không xảy ra như mong muốn của C). |
Như vậy, thông thường để phân biệt phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành được dựa trên tiêu chí trên.
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành phải chịu trách nhiệm thế nào?
Câu hỏi: Chào Luật sư. Tôi có câu hỏi mong được giải đáp như sau: Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành thì phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào? Xin chân thành cảm ơn.
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội (Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015). Phạm tội chưa đạt được phân chia thành: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Căn cứ Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015 thì người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Việc chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015:
- Hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Mức độ thực hiện ý định phạm tội trong trường hợp này được hiểu là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
- Và nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
- Riêng việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội chưa đạt được quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 102 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể:
1. Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này.
...3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.
Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các Điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này.
Trong đó,
- Điều 99 quy định: Hình thức phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu họ có tài sản riêng hoặc có thu nhập. Trong trường hợp này, mức phạt tiền được áp dụng không quá 1/2 mức tiền phạt mà điều luật quy định. Điều luật không quy định mức phạt tiền đối với người dưới 16 tuổi. Như vậy, hình phạt tiền đối với người phạm tội chưa đạt từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là không quá 1/4 mức tiền phạt mà điều luật quy định.
- Điều 100 quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. Mức hình phạt được áp dụng chung cho người dưới 18 tuổi phạm tội là không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định.Theo quy định này, người phạm tội chưa đạt là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì mức phạt tù là không quá 1/6 mức phạt điều luật quy định, còn mức phạt này đổi với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là không quá 1/4 mức phạt mà điều luật quy định.
- Điều 101 quy định:
+ Trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội mà mức hình phạt theo điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định.
Vì vậy, trong trường hợp phạm tội chưa đạt thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị áp dụng mức hình phạt là không quá 04 năm tù (trường hợp điều luật quy định mức hình phạt là chung thân hoặc tử hình), và không quá 1/6 mức phạt mà điều luật quy định.+ Trong trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
Vậy nên, trong trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt thì mức phạt tù cao nhất có thể là không quá 09 năm (trường hợp điều luật quy định mức hình phạt là chung thân hoặc tử hình), và không quá 3/8 mức phạt mà điều luật quy định.Kết luận, mức án tù cao nhất áp dụng cho người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là 20 năm (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình) hoặc không quá 3/4 mức phạt tù có thời hạn mà điều luật quy định. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì tùy thuộc từng độ tuổi mà mức phạt tù cụ thể sẽ khác nhau như chúng tôi đã giải đáp ở trên.
Trên đây là giải đáp thắc mắc về phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, nếu còn thắc mắc, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ.>> Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội gồm những gì?