Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn trong lĩnh vực hình sự. Vậy quản lý người bị cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định thế nào? Các trường hợp nào bị cấm đi khỏi nơi cư trú?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự nhằm ngặn chặn kịp thời sự phát triển của tội phạm cũng như các mối nguy hiểm xảy ra trong xã hội.
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một biện pháp ngăn chặn được áp dụng với các đối tượng là bị can, bị cáo có lý lịch và nơi cư trú rõ ràng để bảo đảm cho sự có mặt kịp thời của họ khi có giấy triệu tập của các cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử (theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Theo quy định trên, có thể thấy cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn “dễ chịu” nhất đối với các đối tượng là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự.
Việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được thực hiện trong một thời hạn nhất định. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử.
Trong trường hợp người bị Toà án kết án phạt tù nhưng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là không quá thời hạn tính từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó phải đi chấp hành án phạt tù theo quyết định/ bản án có hiệu lực pháp luật.
Quản lý người bị cấm đi khỏi nơi cư trú thế nào?
Quản lý người bị cấm đi khỏi nơi cư trú thế nào?
Cấm đi khỏi nơi cư trú được xem là một biện pháp ngăn chặn “dễ chịu” nhất bởi biện pháp này không phải cách ly bị can, bị cáo với đời sống xã hội. Họ vẫn được sinh sống, hoạt động tại địa phương nơi cư trú dưới sự giám sát và quản lý của địa phương.
Tuy nhiên, làm thế nào để bảo đảm người được áp dụng biện pháp ngăn chặn này không trốn khỏi địa phương? Việc quản lý người bị cấm đi khởi nơi cư trú được thực hiện thế nào?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú phải thực hiện việc cam kết thông qua làm Giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau:
Không đi khỏi nơi cư trú trong thời gian đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nếu không có sự cho phép của cơ quan đã ra lệnh cấm;
Có mặt tại các cơ quan có thẩm quyền để làm việc theo giấy triệu tập (trừ lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể tham gia);
Không bỏ trốn khỏi nơi cư trú hoặc tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian đang áp dụng biện pháp ngăn chặn;
Không cưỡng ép, mua chuộc hay xúi giục người khác cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật;
Không tiêu huỷ, làm giả các tài liệu chứng cứ hoặc tẩu tán tài sản có liên quan đến vụ án hình sự đang điều tra;
Không đe doạ hoặc có hành vi trả thù người bị hại, người làm chứng hay người tố giác tội phạm và những người thâm thích của những người này.
Trong trường hợp đã làm Giấy cam đoan cam kết thực hiện các nghĩa vụ trên nhưng vẫn vi phạm thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thay đổi biện pháp ngăn chặn thành tạm giam để đảm bảo tính răn đe tốt hơn.
Bên cạnh việc làm Giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ nêu trên thì người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được giao cho chính quyền địa phương nơi cư trú quản lý, giám sát, theo dõi theo quy định.
Trong trường hợp bị can, bị cáo là quân nhân được áp dụng biện pháp ngăn chặn này thì sẽ giao cho đơn vị quân đội nơi quản lý quân nhân quản lý, giám sát và theo dõi trong quá trình bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
Trong thời gian này, nếu người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn có lý do cần phải đi khỏi nơi cư trú trong một thời gian nhất định thì phải có sự đồng ý của chính quyền địa phương/ đơn vị nơi quản lý họ cư trú và giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trước đó.
Như vậy, việc quản lý người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định rất chặt chẽ.
Việc quản lý được thực hiện trước hết là từ ý thức tự giác của người bị cấm đi khỏi nơi cư trú trong việc chấp hành nghĩa vụ đã cam kết và là sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị quản lý của người đó ở nơi cư trú cùng với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử theo quy định.
Cấm đi khỏi nơi cư trú có được đi làm không?
Tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành đã nêu rõ người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú không được đi khởi nơi cư trú trong thời gian đang thực hiện lệnh cấm.
Tuy nhiên, trong trường hợp có lý do chính đáng, lý do bất khả kháng mà có sự đồng ý của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng như có giấy cho phép của cơ quan/ cá nhân đã ra lệnh cấp thì người bị cấm đi khỏi nơi cư trú vẫn được đi khỏi nơi cư trú của mình.
Pháp luật hiện hành chỉ hạn chế về quyền tự do đi lại ra khỏi lãnh thổ địa phương nơi cư trú mà không hạn chế về quyền được làm việc của công dân trong thời gian bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã rất cởi mở trong việc cho phép người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được phép rời khởi nơi cư trú khi có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
Do đó, cấm đi khỏi nơi cư trú vẫn có thể đi làm khi có sự đồng ý của cá nhân/ cơ quan có thẩm quyền nêu trên.
Các trường hợp bị cấm đi khỏi nơi cư trú
Theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn thực hiện biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự thì biện pháp này thường được áp dụng đối với các bị can, bị cáo trong các trường hợp sau:
Phạm tội lần đầu, phạm tội thuộc nhóm tội ít nghiêm trọng;
Người phạm tội có lý lịch, nơi cư trú rõ ràng và có thái độ thành khẩn, hợp tác với cơ quan điều tra.