Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: | 23/1993 |
Số hiệu: | 69-CP | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị định | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 18/10/1993 | Hết hiệu lực: | 21/10/2004 |
Áp dụng: | 18/10/1993 | Tình trạng hiệu lực: | Hết Hiệu lực |
Lĩnh vực: | Đang cập nhật |
NGHị địNH
CủA CHíNH PHủ Số 69-CP NGàY 18-10-1993
QUY địNH THủ TụC THI HàNH áN DâN Sự
CHíNH PHủ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
NGHị địNH:
CHươNG I
NHữNG QUY địNH CHUNG
Điều 1.
1. Trưởng Phòng thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh), ra quyết định thi hành các bản án, quyết định được thi hành sau đây:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
b) Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của Đội thi hành án quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nhưng do tính chất phức tạp của việc thi hành án mà Phòng thi hành án cấp tỉnh thấy cần thiết lấy lên để thi hành;
c) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho Phòng thi hành án cấp tỉnh;
d) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác.
2. Trưởng Phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương (sau đây gọi tắt là Trưởng Phòng thi hành án quân khu), ra quyết định thi hành các quyết định về tài sản trong bản án hình sự được thi hành sau đây:
a) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toá án quân sự quân khu và tương đương;
b) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự khu vực trên địa bàn của Toà án quân khu và tương đương;
c) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự Trung ương chuyển giao cho Phòng thi hành án quân khu;
d) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự do Phòng thi hành án quân khu khác uỷ thác;
e) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác.
3. Đội trưởng Đội thi hành án ra quyết định thi hành các bản án, quyết định được thi hành sau đây:
a) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
c) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc của Toà án nhân dân tối cao do Phòng thi hành án cấp tỉnh uỷ thác cho Đội thi hành án;
d) Bản án, quyết định do Phòng thi hành án, Đội thi hành án nơi khác uỷ thác;
e) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự do Phòng thi hành án quân khu uỷ thác.
Điều 2.
1. Chỉ được uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản. Trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án, nhưng xét thấy cần uỷ thác thì phải ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án và uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi có điều kiện thi hành.
2. Việc uỷ thác thi hành án được thực hiện trực tiếp giữa các cơ quan thi hành án cùng cấp không phân biệt địa bàn hoạt động, cơ quan thi hành án dân sự hay cơ quan thi hành án trong quân đội.
3. Phòng thi hành án cấp tỉnh uỷ thác trực tiếp cho Đội thi hành án thuộc địa phương mình hoặc cho Đội thi hành án cấp tỉnh của địa phương mình.
4. Cơ quan thi hành án nhận uỷ thác, nếu không có điều kiện thực hiện uỷ thác thì giải quyết như sau:
a) Trong trường hợp cơ quan thi hành án đã uỷ thác chủ động ra quyết định thi hành thì cơ quan nhận uỷ thác phải uỷ thác tiếp cho cơ quan thi hành án nơi có điều kiện thi hành;
b) Trong trường hợp cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án thì cơ quan nhận uỷ thác trả lại đơn yêu cầu cho đương sự và hướng dẫn việc gửi đơn yêu cầu đến cơ quan nơi có điều kiện thi hành.
Điều 3. Trong trường hợp thi hành bản án, quyết định mà có liên quan đến nhiều người phải thi hành án ở các địa phương khác nhau hoặc tài sản, thu nhập của họ ở những địa phương khác nhau, thì được uỷ thác từng phần cho cơ quan thi hành án ở các địa phương đó.
Điều 4.
1. Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh, Đội trưởng Đội thi hành án, Trưởng Phòng thi hành án quân khu có quyền ra các quyết định uỷ thác.
2. Phòng thi hành án cấp tỉnh trực tiếp tổ chức thi hành hoặc uỷ thác cho Phòng thi hành án cấp tỉnh nơi khác ra quyết định thi hành trong những trường hợp sau đây:
a) Thi hành bản án, quyết định về nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại mà người phải thi hành án là cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trở lên;
b) Thi hành bản án, quyết định có nhân tố nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.
3. Trưởng Phòng thi hành án có thể uỷ thác cho Đội trưởng Đội thi hành án ra quyết định thi hành một phần bản án, quyết định trong những trường hợp sau đây:
a) Phần bản án, quyết định liên quan đến tài sản kê biên, tạm giữ và tang vật được Toà án chuyển giao thì Phòng thi hành án cấp tỉnh trực tiếp thi hành. Phần bản án, quyết định còn lại nếu Phòng thi hành án cấp tỉnh không có điều kiện trực tiếp thi hành thì phải uỷ thác cho Đội thi hành án ra quyết định thi hành;
b) Việc thi hành bản án, quyết định có liên quan đến nhiều quận, huyện trong tỉnh, thành phố hoặc ở các tỉnh, thành phố khác nhau.
4. Trưởng Phòng thi hành án quân khu có thể uỷ thác cho Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh hoặc Đội trưởng Đội thi hành án và ngược lại.
Điều 5.
1. Quyết định uỷ thác phải ghi rõ nội dung uỷ thác, khoản đã thi hành xong, khoản đang thi hành dở dang, khoản cần tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện uỷ thác.
Quyết định uỷ thác phải kèm theo bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản.
2. Cơ quan thi hành án đã uỷ thác có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án đã chuyển giao bản án, quyết định, Viện Kiểm sát cùng cấp và người được thi hành án biết việc uỷ thác.
Điều 6. Đơn yêu cầu của người được thi hành án bao gồm:
a) Đơn yêu cầu hoặc biên bản ghi yêu cầu thi hành án của người được thi hành án;
b) Bản sao bản án, quyết định của Toà án.
Điều 7. Quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án:
a) Được gửi đơn hoặc trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án;
b) Được thông báo, chứng kiến việc kê biên, định giá bán đấu giá tài sản, khấu trừ tài sản của người phải thi hành án;
c) Khiếu nại hành vi trái pháp luật của chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án;
d) Khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong trường hợp có tranh chấp tài sản liên quan đến việc thi hành án.
CHươNG II
THủ TụC THI HàNH áN
Điều 8.
1. Sau khi nhận bản sao bản án, quyết định của Toà án, đơn yêu cầu của người được thi hành án, cơ quan thi hành án phải vào Sổ nhận bản sao bản án, quyết định, Sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án.
Trong trường hợp người được thi hành án trực tiếp đến yêu cầu thi hành án, thì lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu, có chữ ký của đương sự, và vào Sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án.
Khi vào Sổ nhận bản sao bản án, quyết định, phải ghi rõ nội dung bản án, quyết định, nội dung biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có).
Khi vào Sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án phải ghi rõ nội dung yêu cầu và căn cứ để thi hành án.
2. Trong trường hợp cơ quan thi hành án chủ động thi hành án thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, quyết định của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải ra quyết định thi hành.
Trong trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải ra quyết định thi hành án.
Đối với mỗi bản án, quyết dịnh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thể ra một hoặc nhiều quyết định thi hành án, theo từng khoản được thi hành của bản án, quyết định.
Đối với các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải ra ngay quyết định thi hành và phân công chấp hành viên thi hành quyết định.
3. Khi đã có quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án phải vào Sổ thụ lý thi hành án. Sổ thụ lý thi hành án phải ghi rõ căn cứ, nội dung của quyết định thi hành án và chấp hành viên được phân công thi hành án.
Thời hạn thụ lý việc thi hành án được tính từ ngày vào Sổ thụ lý thi hành án.
Sau khi nhận được quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, chấp hành viên phải vào Sổ thụ lý thi hành án và định cho người phải thi hành án thời hạn không quá ba mươi ngày để tự nguyện thi hành. Giấy báo việc tự nguyện thi hành án được sao gửi cho người được thi hành án. Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành, thì chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án và phải sao gửi quyết định đó cho các đương sự.
4. Sổ nhận bản sao bản án, quyết định, Sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án, Sổ thụ lý thi hành án, Sổ uỷ thác thi hành án và các sổ sách khác về thi hành án được lập theo mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định.
Điều 9.
1. Trong trường hợp cơ quan thi hành án chủ động thi hành án, nếu quá thời hạn một năm, kể từ ngày bản án, quyết định đã được thi hành mà cơ quan, tổ chức được thi hành án, không đến nhận tài sản hoặc tiền bồi thường thiệt hại, thì cơ quan thi hành án nộp tài sản đã thu được vào ngân sách Nhà nước.
2. Trong trường hợp cơ quan thi hành án trả lại đơn yêu cầu thi hành án, nếu phát hiện người phải thi hành án đã có tài sản hoặc thu nhập để thi hành, thì người được thi hành án có quyền nộp đơn yêu cầu thi hành án và chứng minh điều kiện thi hành của người phải thi hành án. Trong trường hợp này, thời hiệu ba năm được tính từ ngày người phải thi hành án có tài sản hoặc thu nhập để thi hành.
3. Nếu người phải thi hành án không có tài sản để thi hành, thì người đó phải làm đơn trình bày, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn về việc không có tài sản để thi hành án. Người được thi hành án có quyền cung cấp tài liệu, chứng minh việc người phải thi hành án có tài sản để thi hành. Cơ quan thi hành án có thể tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của người phải thi hành án.
4. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn yêu cầu thi hành án là ba năm, kể từ ngày việc thi hành bị ngừng.
5. Những sự kiện sau đây được coi là trở ngại khách quan làm cho người được thi hành án không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn:
a) Người được thi hành án không nhận được bản sao bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ;
b) Người được thi hành án vắng mặt ở nơi thi hành án trong một thời gian dài do yêu cầu công tác, chữa bệnh hoặc vì lý do khách quan khác; người được thi hành án chết mà chưa xác định được người thừa kế, trừ trường hợp quy định tại điểm 2 Điều 26 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự;
c) Do thiên tai, hoả hoạn;
d) Do lỗi của cơ quan thi hành án.
6. Việc khôi phục thời hiệu thi hành án do Thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định thi hành án xét và quyết định theo đơn của người được thi hành án kèm theo tài liệu chứng minh về trở ngại khách quan.
Điều 10.
1. Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án, bao gồm:
a) Chi phí kê biên tài sản: tiền thuê giữ hoặc bảo quản tài sản đã kê biên, tiền giám định tài sản đã kê biên;
b) Chi phí định giá tài sản: tiền thù lao cho các thành viên của Hội đồng định giá, tiền thuê địa điểm, phương tiện để tổ chức bán đấu giá, chi phí tổ chức định giá lại tài sản;
c) Tiền thuê chuyên chở đồ vật, tài sản, chi phí thù lao cho những người tham giá cưỡng chế trong thời gian tổ chức cưỡng chế thi hành án.
2. Mức chi phí cưỡng chế thi hành án phải thực tế, hợp lý do chấp hành viên tính toán và phải được Thủ trưởng cơ quan thi hành án duyệt và thông báo cho người phải thi hành án biết.
3. Chi phí cưỡng chế thi hành án do người phải thi hành án nộp hoặc được khấu trừ vào tiền bán đấu giá tài sản đã bị kê biên, hoặc khấu trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ, thuê, vay, mượn, sửa chữa.
4. Nếu người phải thi hành án thực sự có khó khăn về kinh tế, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thể xét miễn một phần hoặc toàn bộ chi phí cưỡng chế thi hành án.
Điều 11.
1. Thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án có quyền hoãn thi hành án trong những trường hợp:
a) Người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định thì người đó phải tự mình thực hiện. Việc hoãn thi hành án trong trường hợp này không áp dụng đối với việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản, nếu người phải thi hành án tuy ốm nặng mà vẫn có tài sản để thi hành án;
b) Người được thi hành án yêu cầu hoặc đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành. Nếu người được thi hành án yêu cầu hoãn thi hành án, thì phải có đơn hoặc rút lại đơn yêu cầu thi hành án.
Nếu người phải thi hành án yêu cầu hoãn việc thi hành án mà được người được thi hành án đồng ý, thì việc đó phải được lập biên bản, có chữ ký của các đương sự. Đơn yêu cầu hoặc biên bản phải ghi rõ nội dung yêu cầu và thời hạn hoãn thi hành án. Thời hạn hoãn thi hành án được tính vào thời hiệu thi hành án.
Khi điều kiện hoãn thi hành án không còn thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án.
2. Việc hoãn thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này chỉ được áp dụng trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án, mà chưa tổ chức việc cưỡng chế thi hành án.
3. Khi cần thiết, người có quyền kháng nghị bản án, quyết dịnh của Toà án được quyền yêu cầu hoãn thi hành án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án khi phát hiện bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật, cần phải hoãn ngay việc thi hành để tránh hậu quả không thể khắc phục được và chỉ được thực hiện trước khi tiến hành việc cưỡng chế thi hành án.
Việc yêu cầu hoãn thi hành án phải được thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án, ghi rõ thời hạn hoãn thi hành án, nhưng không được quá ba tháng, kể từ ngày ra quyết định hoãn thi hành. Văn bản yêu cầu hoãn thi hành án phải do người có quyền kháng nghị ký. Trong trường hợp đã có văn bản mà cần thông báo ngay bằng điện thoại, điện tín, thì phải thông báo cho cơ quan thi hành án biết số, ngày, nội dung chủ yếu và người ký văn bản yêu cầu hoãn thi hành án.
Khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án, cơ quan thi hành án phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án và thông báo cho người đã yêu cầu biết. Hết thời hạn ba tháng mà không có kháng nghị, thì cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án và thông báo cho người đã yêu cầu hoãn thi hành án biết. Trong trường hợp nhận được yêu cầu hoãn thi hành án mà bản án, quyết định đã được thi hành xong, thì cơ quan thi hành án cần thông báo ngay cho người đã yêu cầu hoãn thi hành án biết.
Điều 12.
1. Người kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ việc thi hành án, quyết định đó; việc ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án chỉ được thực hiện khi đã có kháng nghị. Nếu có kháng nghị mà cần thông báo ngay quyết định tạm đình chỉ thi hành án, thì được thông báo bằng điện thoại, điện tín cho cơ quan thi hành án biết số, ngày, nội dung chủ yếu và người ký kháng nghị.
2. Hết thời hạn sáu tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị mà cơ quan thi hành án vẫn chưa nhận được văn bản thông báo kết quả xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án và thông báo cho người đã ra kháng nghị biết.
Trong trường hợp nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có quyền kháng nghị mà bản án, quyết định đã được thi hành xong, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải thông báo ngay cho người đó biết.
3. Khi bản án, quyết định của Toà án đã được thi hành một phần mà có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 11 của Nghị định này, thì Thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định thi hành án có quyền tạm đình chỉ thi hành án cho đến khi điều kiện tạm đình chỉ không còn.
Điều 13. Trong trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án có trách nhiệm theo dõi, xác minh tài sản, thu nhập của người phải thi hành án để bảo đảm việc thi hành án.
Điều 14. Việc tự nguyện yêu cầu không thi hành án của người được thi hành án phải được thể hiện trong đơn yêu cầu hoặc biên bản ghi rõ yêu cầu và người đó không còn quyền yêu cầu thi hành án trở lại.
CHươNG III
CáC BIệN PHáP CưỡNG CHế THI HàNH áN
Điều 15.
1. Khi kê biên tài sản đang tranh chấp và giao cho người đang giữ hoặc đang sử dụng tài sản đó bảo quản, chấp hành viên phải lập biên bản ghi rõ thực trạng tài sản, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giữ hoặc bảo quản tài sản, người được giao bảo quản tài sản không được chuyển dịch tài sản đó khi Toà án chưa giải quyết xong vụ án.
Việc kê biên tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước, xí nghiệp liên doanh, công ty cổ phần do Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện.
2. Khi kê biên tài sản của người phải thi hành án, chấp hành viên phải tạm tính trị giá các tài sản định kê biên và các chi phí về thi hành án cần phải thanh toán để kê biên tương ứng với mức đủ để thi hành án.
Nếu các đương sự thoả thuận được giá cả tài sản đã kê biên, thì chấp hành viên lập biên bản ghi rõ thoả thuận, có chữ ký của các đương sự.
Chấp hành viên lập Hội đồng định giá để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên khi các đương sự không thoả thuận được về giá cả hoặc việc định giá đòi hỏi phải có cán bộ chuyên môn tham gia.
3. Việc kê biên nhà ở chỉ được tiến hành khi những tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án, và số tiền phải thi hành án tương đối lớn đòi hỏi phải kê biên nhà ở. Trong trường hợp trị giá nhà ở lớn hơn mức thi hành án, thì chấp hành viên định thời hạn không quá một tháng cho người thi hành án tìm tài sản khác để thi hành án trước khi kê biên nhà ở. Khi đã kê biên nhà ở, trong thời hạn ba mươi ngày trước khi tổ chức bán đấu giá, người phải thi hành án vẫn có quyền tìm tài sản khác để thi hành án.
Khi định giá nhà ở đã kê biên phải có đại diện cơ quan quản lý nhà đất và cơ quan quản lý xây dựng tham gia Hội đồng định giá.
Đại diện cơ quan chuyên môn trong Hội đồng định giá là đại diện cơ quan có thẩm quyền quản lý về mặt chuyên môn - nghiệp vụ việc sử dụng loại tài sản đã kê biên.
Điều 16. Không được kê biên những tài sản sau đây:
1. Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu hoạch mới; số thuốc men cần dùng cho nhu cầu phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình;
2. Công cụ lao động thông thường cần thiết được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;
3. Số quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình theo mức tối thiểu ở từng địa phương.
4. Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương.
Điều 17.
1. Trong thời hạn không quá ba ngày, kể từ ngày các đương sự thoả thuận được về giá cả tài sản đã kê biên, chấp hành viên phải tiến hành bán tài sản theo giá cả đã thoả thuận.
2. Trong thời hạn không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng định giá đã định giá tài sản kê biên, chấp hành viên phải tổ chức bán đấu giá tài sản đó. Danh mục tài sản, thời gian và địa điểm bán đấu giá công khai phải niêm yết tại trụ sở cơ quan thi hành án và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá.
3. Việc bán đấu giá chỉ được tổ chức khi có từ hai người trở lên tham dự việc mua tài sản và những người đó không có quan hệ gia đình với nhau và với người tổ chức bán đấu giá.
Những người đã trực tiếp xét xử vụ án có tài sản được đưa ra bán đấu giá, thành viên của Hội đồng định giá, chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án không được tham gia mua tài sản bán đấu giá.
4. Đương sự được nộp tiền lấy lại tài sản đưa ra bán đấu giá trước khi người mua tài sản đấu giá hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu, nhưng phải thanh toán các chi phí cưỡng chế thực tế đã phát sinh và lãi suất cho người mua đấu giá (nếu có). Khi có nhiều tài sản được bán đấu giá mà tài sản bán được đã đủ để thi hành và thanh toán các chi phí phát sinh, thì chấp hành viên kết thúc việc bán đấu giá, trả tài sản còn lại cho người phải thi hành án.
5. Người mua tài sản bán đấu giá (trừ nhà ở) phải nộp ngay 2% giá trị tài sản và sau 15 ngày phải nộp đủ số tiền mua tài sản và được nhận tài sản. Nếu quá hạn đó mà không nộp đủ tiền, thì người mua không được lấy lại số tiền nộp trước, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
6. Khi tổ chức bán đấu giá, chấp hành viên có trách nhiệm:
a) Lập biên bản bán đấu giá thành hoặc bán đấu giá không thành;
b) Phải giao ngay cho người đã mua tài sản các giấy tờ cần thiết cho việc làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu tài sản.
7. Đối với tài sản thuộc loại phải làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu, căn cứ vào quyết định của Toà án, quyết định thi hành án và biên bản bán đấu giá thành, các cơ quan Nhà nước hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho người mua tài sản làm các thủ tục chuyển dịch, đăng ký quyền sở hữu tài sản đó.
8. Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người đó không nhận, thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập hoặc trừ vào tài sản khác của người phải thi hành án đang do người khác giữ, hoặc kê biên tài sản khác nếu có.
Điều 18.
1. Số tiền thi hành án thu được, kể cả tiền bán tài sản, phải thanh toán lần lượt theo thứ tự ưu tiên: tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; tiền công lao động và các khoản phải trả khác.
2. Nếu trong cùng một hàng ưu tiên có nhiêu người được thi hành án, thì số tiền thi hành án thu được, sau khi trừ các chi phí về thi hành án được thanh toán cho họ theo tỷ lệ số tiền họ được thi hành án.
Điều 19. Thủ trưởng, kế toán trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, người sử dụng lao động nơi người phải thi hành án làm việc hoặc nhận thu nhập phải thực hiện quyết định của chấp hành viên về việc trừ vào thu nhập của người đó, chuyển số tiền trừ được cho người được thi hành án và thông báo cho chấp hành viên đã ra quyết định biết.
Điều 20.
1. Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng phải cung cấp số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan thi hành án và thực hiện quyết định của chấp hành viên về khấu trừ tiền hoặc tài sản của người đó để chuyển cho người được thi hành án.
2. Người đang vay, mượn, thuê, giữ, sửa chữa tài sản của người phải thi hành án phải thực hiện quyết định về khấu trừ tài sản của người đó để chuyển cho người được thi hành án.
CHươNG IV
Xử PHạT VI PHạM
Điều 21.
1. Chấp hành viên có quyền phạt tiền từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng đối với các hành vi sau đây của người phải thi hành án:
a) Cố tình không đến nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án, mặc dù đã được triệu tập đến lần thứ hai;
b) Trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
2. Chấp hành viên có quyền phạt tiền từ trên 50.000 đồng đến 100.000 đồng đối với các hành vi sau đây của người phải thi hành án:
a) Đã bị phạt tiền mà còn tái phạm;
b) Cản trở hoặc có hành vi thô bạo, lăng nhục người thi hành công vụ trong khi tiến hành việc thi hành án;
c) Cố tình không thực hiện các quyết định khẩn cấp tạm thời hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay;
d) Tẩu tán tài sản để tránh việc kê biên; phá huỷ niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại tài sản đã kê biên.
3. Thủ trưởng cơ quan thi hành án có quyền phạt tiền ở mức 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với các hành vi sau đây của người phải thi hành án:
a) Đã bị chấp hành viên phạt tiền theo quy định của khoản 2 Điều này, mà còn tái phạm;
b) Chống đối việc cưỡng chế thi hành án;
c) Cơ quan, tổ chức phải thi hành án không thi hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của chấp hành viên.
4. Người bị phạt tiền có quyền khiếu nại quyết định xử phạt theo quy định của pháp luật.
Điều 22. Người nào tẩu tán, huỷ hoại, chuyển dịch, đánh tráo tài sản đã kê biên mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của Toà án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật, vi phạm các quy định về thủ tục thi hành án, thì bị xử lý kỷ luật: cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
CHươNG V
ĐIềU KHOảN THI HàNH
Điều 24. Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký.
Những quy định trước đây trái Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 25. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
01 | Văn bản căn cứ |
02 | Văn bản căn cứ |
03 | Văn bản thay thế |
Cơ quan ban hành: | Chính phủ |
Số hiệu: | 69-CP |
Loại văn bản: | Nghị định |
Ngày ban hành: | 18/10/1993 |
Hiệu lực: | 18/10/1993 |
Lĩnh vực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | 23/1993 |
Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày hết hiệu lực: | 21/10/2004 |
Tình trạng: | Hết Hiệu lực |
File văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!