hieuluat
Chia sẻ email
Thứ Sáu, 28/12/2018
Theo dõi Hiểu Luật trên google news

Đã lập gia đình có được đứng tên một mình trên sổ đỏ?

Do vợ/chồng ở nước ngoài không thể tham gia giao dịch mua/bán, do là tài sản được tặng cho, thừa kế riêng… Có rất nhiều lý do khiến việc một người đã có gia đình quan tâm đến việc liệu họ có thể một mình đứng tên trên sổ đỏ hay không?

Đã lập gia đình có được đứng tên một mình trên sổ đỏ?

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Luật này cũng quy định trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Bất động sản là tài sản mà Nhà nước quy định bắt buộc phải đăng ký quyền sử dụng. Vì thế, theo quy định của Luật này, nếu bất động sản là tài sản chung thì giấy chứng nhận phải ghi tên cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật cũng tôn trọng thỏa thuận của hai bên. Thỏa thuận này có thể là việc vợ hoặc chồng ủy quyền cho người còn lại đứng tên một mình hoặc một bên vợ chồng từ chối quyền sử dụng đối với bất động sản… Lúc này, sổ đỏ hoàn toàn có thể đứng tên một người.

Một trường hợp nữa đương nhiên vợ, chồng đứng tên một mình trên sổ đỏ đó là bất động sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Đã lập gia đình có được đứng tên một mình trên sổ đỏ?

Đã lập gia đình có được đứng tên một mình trên sổ đỏ?

Đứng tên một mình trên sổ đỏ, có được tự ý bán, cho?

Theo phân tích trên, dù bất động sản là tài sản chung của vợ, chồng nhưng trong một số trường hợp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người. Tuy nhiên, vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vì thế, việc bán, cho tài sản chung là bất động sản nhất định phải nhận được sự đồng ý của cả vợ chồng thì giao dịch mới có hiệu lực.

Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt những giao dịch phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

hieuluat.vn

Tin cùng chủ đề

Có thể bạn quan tâm

X