Tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp. Để có thể kiểm soát được dịch bệnh, cần có sự chung tay của mọi người, mọi nhà. Tuy nhiên, thực tế, rất nhiều trường hợp vi phạm quy định về phòng, chống dịch. Vậy, nếu vi phạm Chỉ thị 16, mức phạt thế nào?
Giãn cách theo Chỉ thị 16, những ai được ra khỏi nhà?
Để hướng dẫn thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Công văn 2601/VPCP-KGVX. Theo đó những trường hợp sau được phép ra khỏi nhà:
- Mua lương thực, thực phẩm, dược phẩm và hàng hóa, dịch vụ thiết yếu khác;
Ra khỏi nhà phải đeo khẩu trang, rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn; không tập trung quá 2 người trở lên tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện và phải giữ khoảng cách tối thiểu 2m.
- Các trường hợp khẩn cấp như: cấp cứu, khám chữa bệnh; thiên tai, hỏa hoạn,...
- Làm việc tại các cơ quan, đơn vị nhà nước, lực lượng vũ trang, cơ quan ngoại giao và tại các cơ sở sản xuất; cơ sở kinh doanh dịch vụ, hàng hóa thiết yếu (như: lương thực, thực phẩm, dược phẩm; xăng, dầu; điện; nước; nhiên liệu,...)
Nếu thuộc trường hợp không được ra khỏi nhà, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời, trường hợp là cơ quan, tổ chức vi phạm thì người đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm về việc cán bộ, nhân viên lây nhiễm dịch bệnh do không chấp hành nghiêm quy định phòng, chống dịch.
Ngoài ra, tùy vào từng hành vi khác có vi phạm liên quan đến những quy định trong Chỉ thị 16 mà người vi phạm còn bị xử phạt hành chính hoặc truy tố trách nhiệm hình sự.
Mức xử phạt theo Chỉ thị 16 quy định thế nào? Ảnh minh họa.
Mức xử phạt theo Chỉ thị 16 quy định thế nào?
Về cơ bản đối với các tỉnh, thành áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16, đều có quy định chung về việc xử phạt nếu vi phạm quy định tại Chỉ thị 16 như sau:
- Ra đường trong trường hợp không cần thiết, phạt tiền từ 1-3 triệu đồng (theo điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP)
- Giao tiếp trong phạm vi dưới 2m, phạt tiền từ 1-3 triệu đồng (Điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP)
- Tụ tập từ 3 người trở lên, phạt tiền từ 10-20 triệu đồng đối với cá nhân; từ 20-40 triệu đồng đối với tố chức (Điểm c khoản 3 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.)
- Không đeo hoặc quên đeo, phạt tiền từ 1-3 triệu đồng. (Điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP)
Riêng tại Hà Nội, Sở Tư pháp Hà Nội đã ban hành Văn bản số 1997/STP-PBGDPL công bố cụ thể mức xử phạt đối với 16 hành vi vi phạm quy định phòng, chống dịch Covid-19. Theo đó, mức phạt tiền cao nhất là 200 triệu đồng và có thể bị xử lý hình sự với mức phạt tù tối đa 20 năm.
Cụ thể:
1. Không đeo khẩu trang nơi công cộng, không giữ khoảng cách theo quy định khi tiếp xúc, ra ngoài không cần thiết bị phạt tiền tối đa 3 triệu đồng.
2. Vứt khẩu trang đã sử dụng không đúng nơi quy định tại nơi công cộng bị phạt tiền tối đa đến 1 triệu đồng; nếu vứt ra vỉa hè, đường phố bị phạt tiền tối đa 2 triệu đồng.
3. Che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời hiện trạng bệnh của bản thân hoặc của người khác mắc bệnh COVID-19 thì bị phạt tiền tối đa 20 triệu đồng.
4. Không thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có thẩm quyền trong quá trình thực hiện giám sát dịch bệnh, bị phạt tiền tối đa 3 triệu đồng.
5. Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch…bị phạt tiền tối đa 20 triệu đồng đối với cá nhân, 40 triệu đồng đối với tổ chức.
6. Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng để phòng, chống dịch COVID-19, bị phạt tiền tối đa 20 triệu đồng đối với cá nhân, 40 triệu đồng đối với tổ chức.
7. Không thực hiện quyết định kiểm tra, giám sát, xử lý y tế trước khi ra vào vùng có dịch, bị phạt tiền tối đa 30 triệu đồng.
8. Trốn khỏi nơi cách ly; không tuân thủ quy định về cách ly; từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly y tế, có thể bị phạt tiền tối đa 20 triệu đồng hoặc bị xử lý theo Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015 trong trường hợp gây truyền dịch bệnh cho người khác
(Mức phạt tù tối đa 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
9. Trốn khỏi nơi cách ly; không tuân thủ quy định về cách ly; từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly mà làm gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch, bị xử lý theo Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015.
(Mức phạt tù tối đa 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
10. Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối gây lây truyền dịch cho người khác bị xử lý theo Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015
(Mức phạt tù tối đa 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
11. Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh có thể bị phạt tiền tối đa 15 triệu đồng hoặc bị xử lý theo Điều 288 Bộ luật Hình sự năm 2015.
(Mức phạt tù tối đa 7 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
12. Có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ, bị xử lý theo Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Mức phạt tù tối đa 7 năm)
13. Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ (như quán bar, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát-xa, cơ sở thẩm mỹ...) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng, chống dịch, gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý theo Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015
(Mức phạt tù tối đa 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
14. Có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh COVID-19 để mua vét hàng hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội đầu cơ theo quy định tại Điều 196 Bộ luật Hình sự năm 2015
(Mức phạt tù tối đa 15 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
15. Có hành vi lợi dụng dịch bệnh COVID-19 đưa ra thông tin không đúng sự thật về công dụng của thuốc, vật tư y tế về phòng, chống dịch bệnh nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
16. Người có trách nhiệm trong phòng, chống dịch bệnh nhưng không triển khai hoặc triển khai không kịp thời, không đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại Điều 360 Bộ luật Hình sự năm 2015
(Mức phạt tù tối đa 12 năm và còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm).
Trên đây là giải đáp về Mức xử phạt theo Chỉ thị 16 quy định thế nào? Nếu còn băn khoăn, bạn vui lòng gửi câu hỏi cho chúng tôi để được hỗ trợ.