BỘ TƯ PHÁP ------------------ Số: 03/CT-BTP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ------------------------------ Hà Nội, ngày 27 tháng 06 năm 2011 |
CHỈ THỊ
VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
------------------------------------
Thực hiện Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 12 năm 1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) và Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1999 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Nghị định), trong những năm qua, tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên phạm vi toàn quốc đã có nhiều chuyển biến tích cực. Mạng lưới Tổ hòa giải được thành lập rộng khắp; hoạt động quản lý nhà nước về hòa giải từ Trung ương đến địa phương đã được quan tâm chỉ đạo và dần đi vào nề nếp; chất lượng, hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng lên, hàng năm tỷ lệ hòa giải thành đạt trên 80%; hoạt động hòa giải ở cơ sở đã giải quyết kịp thời nhiều vụ, việc vi phạm pháp luật, mâu thuẫn và tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, qua đó góp phần giảm số lượng vụ, việc phải chuyển đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giữ gìn tình đoàn kết, gắn bó trong nội bộ nhân dân, phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân tại cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận, ổn định, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở địa phương phát triển.
Tuy nhiên, qua kết quả tổng kết công tác hòa giải ở cơ sở nhận thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở vẫn còn một số hạn chế như: Mạng lưới hòa giải chưa đồng đều, số lượng tổ viên Tổ hòa giải còn ít; Tổ hòa giải ở một số nơi hoạt động còn mang tính hình thức, chiếu lệ dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp; một bộ phận tổ viên Tổ hòa giải còn hạn chế về kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải dẫn đến chất lượng hòa giải nhiều việc chưa cao; kinh phí dành cho công tác hòa giải, chế độ đãi ngộ, bồi dưỡng cho tổ viên Tổ hòa giải nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức, kịp thời; việc lưu trữ, thống kê vụ việc chưa đi vào nề nếp, nhiều Tổ hòa giải chưa mở sổ theo dõi, chưa cập nhật đầy đủ thông tin về các vụ việc hòa giải, gây khó khăn cho công tác quản lý. Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến vị trí của công tác này trong xã hội, làm cho nhiều người không tự nguyện, nhiệt tình tham gia các hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong công tác hòa giải ở cơ sở thời gian qua là: Pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở chưa hoàn thiện, một số quy định trong Pháp lệnh và Nghị định về công tác hòa giải ở cơ sở còn chung chung, không rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp dụng chưa được thống nhất; quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở có nơi, có lúc chưa được quan tâm; Sở Tư pháp ở một số địa phương chưa thực sự chủ động, chưa làm tốt vai trò tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp trong quản lý công tác hòa giải ở cơ sở; Tổ hòa giải không được kiện toàn kịp thời, hoạt động bị thả nổi, hiệu quả thấp; chính quyền ở một số nơi chưa thực sự nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, nên thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công này; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp chưa nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong công tác hòa giải nên sự phối hợp với chính quyền, cơ quan Tư pháp thiếu chặt chẽ trong việc củng cố Tổ hòa giải, tạo điều kiện cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, nhân dân và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh tăng cường giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phát huy những giá trị văn hóa lành mạnh, góp phần đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và các phong trào vận động quần chúng khác đi vào chiều sâu, thiết thực, đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế và nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ thị:
1. Tăng cường phổ biến pháp luật về hòa giải ở cơ sở nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội về lĩnh vực công tác này
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) chỉ đạo Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp huyện), Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp xã) tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt là người dân ở cơ sở về vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác này, từ đó sử dụng ngày càng nhiều hơn biện pháp hòa giải để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong cộng đồng. Xác định công tác hòa giải là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần tích cực vào việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng, khu dân cư, tăng cường trách nhiệm, tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chỉ đạo, sự đầu tư đúng mức của chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội khác nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị cho công tác hòa giải ở cơ sở.
2. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế và thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
a) Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan nghiên cứu hoàn chỉnh cơ sở lý luận, thực tiễn, chuẩn bị cho việc soạn thảo dự án Luật hòa giải cơ sở; xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc hòa giải.
b) Sở Tư pháp chủ động, tích cực tham mưu cho Ủy ban nhân dân cùng cấp ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở; tổ chức góp ý dự thảo Luật hòa giải cơ sở, bộ tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc hòa giải và tổ chức triển khai thực hiện khi được ban hành.
3. Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức và nâng cao năng lực cho công chức quản lý và tổ viên Tổ hòa giải ở cơ sở
a) Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì, phối hợp với Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật và các cơ quan có liên quan tiếp tục kiện toàn, bổ sung công chức làm nhiệm vụ quản lý công tác hòa giải ở cơ sở của Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác này trong thời gian tới.
b) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã củng cố, kiện toàn tổ chức và bổ sung cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ theo dõi, quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở của các đơn vị chức năng thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch; rà soát, củng cố, kiện toàn và thống kê tình hình tổ chức và tổ viên Tổ hòa giải ở cơ sở; bảo đảm 100% thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư có ít nhất một Tổ hòa giải; thống nhất mô hình Tổ hòa giải ở các thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư theo quy định của Pháp lệnh; tổ chức đánh giá và nhân rộng mô hình hòa giải tại địa phương đang hoạt động có hiệu quả trong thời gian qua.
c) Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Hội Cựu Chiến binh Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam phối hợp với Bộ Tư pháp chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức cấp dưới của mình phối hợp với cơ quan Tư pháp cùng cấp trong việc củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; động viên, khuyến khích và tạo điều kiện cho thành viên, hội viên tham gia tích cực vào các hoạt động hòa giải ở cơ sở.
d) Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp có trách nhiệm:
- Tham mưu cho Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo, hướng dẫn củng cố và đầu tư trang bị sách, tài liệu pháp luật cho Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn; quan tâm xây dựng mô hình Tủ sách pháp luật tại nhà văn hóa thôn, điểm đọc sách tại xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư; phát huy vai trò của tủ sách dòng họ... để tổ viên Tổ hòa giải có điều kiện tự tìm hiểu, nghiên cứu nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cũng như kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở.
- Định kỳ tham mưu cho Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tổ chức hội thi “Hòa giải viên giỏi”.
- Biên soạn và cung cấp tài liệu pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải cho các Tổ hòa giải ở cơ sở.
- Đổi mới phương pháp, định kỳ tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải cho tổ viên Tổ hòa giải ở cơ sở.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở
a) Tăng cường sự phối hợp giữa Tổ hòa giải với Tổ công tác Mặt trận, Chi hội phụ nữ, Chi hội cựu chiến binh, Chi hội nông dân trong hoạt động hòa giải.
b) Huy động và khuyến khích đội ngũ luật sư, luật gia và những người am hiểu pháp luật tham gia tích cực vào các hoạt động hòa giải ở cơ sở.
c) Phấn đấu hàng năm có trên 90% Tổ hòa giải ở cơ sở hoạt động có hiệu quả, số vụ việc hòa giải thành đạt trên 85%.
d) Cục Trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp chỉ đạo, hướng dẫn mạng lưới tổ chức trợ giúp pháp lý tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở thông qua các hoạt động trợ giúp pháp lý tại địa phương; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và Tổ hòa giải ở cơ sở.
5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở
a) Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, huy động nguồn kinh phí của các tổ chức, cá nhân tài trợ, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở; xây dựng, ban hành các quy định về chế độ đãi ngộ đối với tổ viên Tổ hòa giải ở cơ sở; hướng dẫn, chỉ đạo các huyện nghèo lập và sử dụng đúng mục đích nguồn kinh phí dành cho các hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2020.
b) Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp hướng dẫn xây dựng, kiểm tra việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT- BTC-BTP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của liên Bộ Tài chính và Tư pháp về việc hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
6. Thực hiện tốt công tác kiểm tra và chế độ thông tin, báo cáo, thống kê; định kỳ sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải ở cơ sở
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp định kỳ 6 tháng, hàng năm xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn mình phụ trách. Thực hiện nghiêm, đúng thẩm quyền chế độ thông tin, báo cáo, thống kê về hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định và hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với hoạt động hòa giải cơ sở theo quy định của pháp luật; bảo đảm hàng năm 100% cấp huyện và cấp xã có tổng kết công tác hòa giải. Phát động phong trào thi đua và có biểu dương, khen thưởng đối với các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải ở cơ sở.
Chỉ thị này có hiệu lực từ ngày ký. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này.
Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và định kỳ báo cáo Lãnh đạo
Bộ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị./.
Nơi nhận: - Ban Bí thư (để báo cáo); - Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo); - PTT Trương Vĩnh Trọng (để báo cáo); - Văn phòng TW; - Văn phòng Chính phủ; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - TW Hội Liên hiệp phụ nữ VN; - TW Hội Cựu chiến binh VN; (để phối hợp) - TW Hội Nông dân VN; - TW Hội Người cao tuổi VN; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp; - Các đ/c Thứ trưởng; - Các đơn vị thuộc Bộ; - Lưu: VT, Vụ PBGDPL. | BỘ TRƯỞNG (Đã ký) Hà Hùng Cường |