hieuluat

Nghị quyết 22/NQ-CP phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2022

  • Thuộc tính văn bản

    Cơ quan ban hành:Chính phủSố công báo:Đang cập nhật
    Số hiệu:22/NQ-CPNgày đăng công báo:Đang cập nhật
    Loại văn bản:Nghị quyếtNgười ký:Phạm Bình Minh
    Ngày ban hành:28/02/2022Hết hiệu lực:Đang cập nhật
    Áp dụng:28/02/2022Tình trạng hiệu lực:Còn Hiệu lực
    Lĩnh vực:Tư pháp-Hộ tịch
  • CHÍNH PHỦ
    -------

    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    ---------------

    Số: 22/NQ-CP

    Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2022

     

     

     

    NGHỊ QUYẾT

    PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THÁNG 02 NĂM 2022

    ___________

    CHÍNH PHỦ

     

    Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

    Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

    Trên cơ sở thảo luận của các thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, tổ chức ngày 16 tháng 02 năm 2022,

     

    QUYẾT NGHỊ:

     

    Chính phủ hoan nghênh các Bộ chủ trì xây dựng, thẩm định các dự án luật trình Chính phủ thời gian qua. Các dự án đã cơ bản tập trung cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp, các kết luận của Bộ Chính trị, Ban bí thư... bám sát thực tiễn nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như xử lý các vấn đề mới phát sinh. Tiến độ soạn thảo các dự án được đẩy nhanh hơn, chất lượng từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống và công tác chỉ đạo, điều hành cho thấy còn nhiều vấn đề, nút thắt của các quy định pháp luật đang đặt ra, như vấn đề liên quan tới việc quản lý tài nguyên, khoáng sản, các mặt hàng quan trọng, thiết yếu, các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô... Đặc biệt, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương tháo gỡ những nút thắt, khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện các Chương trình có hiệu quả, phù hợp thực tiễn.

    Năm 2022, Chính phủ tiếp tục quan tâm công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, bảo đảm xứng tầm với một trong ba đột phá chiến lược, trong đó tập trung sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là các vấn đề thực tiễn mới phát sinh, cần điều chỉnh để tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.

    Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Trưởng ngành thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết Phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 01 năm 2022; tiếp tục tập trung, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế thuộc lĩnh vực quản lý; phát hiện các khó khăn, vướng mắc, các vấn đề mới phát sinh cần điều chỉnh, kịp thời sửa đổi hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi để phù hợp tình hình thực tiễn, đáp ứng mong muốn của Nhân dân, tăng khả thi của pháp luật. Trong quá trình soạn thảo các dự án luật cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan; lấy ý kiến đối tượng tác động, huy động trí tuệ tập thể, kinh nghiệm của các chuyên gia, nhà khoa học; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông để truyền thông kịp thời, tăng cường sự phản biện trong xã hội, tạo đồng thuận trong quá trình xây dựng, trình, ban hành văn bản pháp luật.

    Bộ Tư pháp tiếp tục kiểm tra, đôn đốc công tác xây dựng văn bản pháp luật của các bộ, bảo đảm việc xây dựng và hoàn thiện thể chế đúng quy định về trình tự, thời hạn và nâng cao chất lượng. Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu, đề xuất các chế độ, chính sách, nhân lực, cơ sở vật chất cho công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện tốt nhất cho công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, xứng tầm với nhiệm vụ là một trong những đột phá chiến lược.

    Chính phủ quyết nghị các nội dung cụ thể như sau:

    1. Về dự án Luật Thanh tra (sửa đổi)

    Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung của dự án Luật do Thanh tra Chính phủ trình.

    Việc xây dựng, ban hành Luật Thanh tra (sửa đổi) là cần thiết, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật Thanh tra hiện hành, tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nhà nước, bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, đáp ứng yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.

    Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, ngành tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ, tiếp tục hoàn thiện dự án Luật, tập trung vào các nội dung sau đây:

    - Phạm vi, đối tượng thanh tra cần được quy định cho phù hợp, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, giảm thiểu tối đa nguy cơ chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ trống trong hoạt động thanh tra.

    - Về trình tự, thủ tục thanh tra, cần quy định đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra giám sát; có sự phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.

    - Về nguyên tắc, không quy định tổ chức bộ máy trong Luật. Việc thành lập thanh tra chuyên ngành, thanh tra cấp tổng cục, cục trực thuộc bộ, Thanh tra sở cần quy định linh hoạt; giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập hoặc phân quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập theo yêu cầu quản lý và tổng biên chế được giao.

    Hoạt động thanh tra không chỉ là của cơ quan có chức năng quản lý nhà nước theo nguyên tắc ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra, mà ngay cả một số cơ quan nhà nước không có chức năng quản lý nhà nước nhưng nếu cần cũng có thể có thanh tra để thực hiện chức năng tổ chức thi hành pháp luật có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Theo đó, dự án Luật không quy định cụ thể việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ban Cơ yếu Chính phủ, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà quy định mang tính nguyên tắc linh hoạt, bao quát theo hướng Chính phủ quy định việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương và địa phương có chức năng, nhiệm vụ đặc thù trong tổ chức thi hành pháp luật; đồng thời, Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.

    - Về vấn đề Thanh tra nhân dân: Đa số Thành viên Chính phủ thống nhất chuyển sang dự án Luật Dân chủ cơ sở quy định cho phù hợp. Tuy nhiên, đây là vấn đề quan trọng, còn có ý kiến khác nhau, nên trình Quốc hội 2 phương án để xin ý kiến Quốc hội.

    - Các nội dung đề xuất giao Chính phủ quy định chi tiết cần quy định rõ, đồng thời dự thảo văn bản quy định chi tiết gửi kèm theo hồ sơ dự án Luật trình Quốc hội.

    Giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án Luật; Tổng thanh tra Chính phủ thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ, ký trình Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3.

    2. Dự án Luật dầu khí (sửa đổi)

    Về quan điểm tiếp cận xây dựng và hoàn thiện dự án Luật này, Chính phủ xác định yêu cầu đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế nhất là về năng lượng; bảo vệ, khai thác hiệu quả tài nguyên, chủ quyền quốc gia bao gồm cả chủ quyền pháp lý, xây dựng thể chế hội nhập, khẳng định vị thế của Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, tránh lợi ích cục bộ của các bộ, các ngành. Chính phủ, các bộ tập trung xây dựng chính sách, thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, thanh tra, kiểm tra, giám sát, không can thiệp, làm thay hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Chính phủ cơ bản thống nhất quan điểm về các vấn đề lớn của dự án Luật. Giao Bộ Công Thương tiếp tục thảo luận, lấy ý kiến tham vấn các cơ quan liên quan, xin ý kiến các cơ quan của Quốc hội, hoàn thiện Dự án Luật bảo đảm tiến độ, chất lượng dự án Luật trình Quốc hội.

    Yêu cầu Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ hoàn thiện Dự án Luật theo hướng:

    - Hoàn thiện quy định nguyên tắc các vấn đề tài chính cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) trong dự thảo Luật nhằm minh bạch cơ chế tài chính đặc thù của PVN, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với pháp luật ngân sách nhà nước, kế toán, kiểm toán và bảo đảm lợi ích Nhà nước.

    - Hoàn thiện quy định phân cấp cho Hội đồng Thành viên PVN quyết định, chịu trách nhiệm việc góp vốn tham gia các hợp đồng dầu khí gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ theo thẩm quyền của Bộ Công Thương, các Bộ liên quan và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

    - Quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan đại diện chủ sở hữu, Hội đồng thành viên PVN trong việc phê duyệt các vấn đề liên quan đến sử dụng vốn nhà nước của PVN và doanh nghiệp 100% vốn của PVN khi thực hiện hoạt động dầu khí, nhằm khắc phục vướng mắc về quy trình, thủ tục góp vốn, đầu tư, xây dựng trên đất liền, trên biển, kiểm soát rủi ro của PVN và doanh nghiệp 100% vốn của PVN phù hợp với nguyên tắc quản lý, sử dụng vốn nhà nước, quyền đầu tư kinh doanh, trách nhiệm của doanh nghiệp, trong đó quy định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của Bộ Công Thương, các Bộ và quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

    - Phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp bảo đảm phân định, lý giải rõ căn cứ áp dụng quy định chung và quy định đặc thù áp dụng Luật này trong quá trình sửa đổi Luật Giá, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Ngân sách nhà nước, pháp luật thuế... bảo đảm thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

    Bộ Công Thương tập trung hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm chất lượng dự án Luật theo yêu cầu của Chính phủ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình Quốc hội.

    3. Về Đề nghị xây dựng Luật Phòng thủ dân sự

    Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước, là một trong những nội dung cơ bản của xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết, quan điểm, mục tiêu và nội dung 6 chính sách của Đề nghị xây dựng Luật, về từng chính sách cụ thể, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện nội dung theo hướng:

    - Nghiên cứu tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố trong hoạt động phòng thủ dân sự cho phù hợp với từng lĩnh vực cần đánh giá; xác định rõ các lĩnh vực cần ban hành tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro về thảm họa, sự cố; đánh giá mức độ rủi ro về thảm họa, sự cố trên các lĩnh vực;

    - Rà soát kỹ lưỡng các quy định pháp luật liên quan để có quy định phù hợp về phân công, phân cấp các nhiệm vụ quản lý nhà nước và phân cấp trong tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh chồng lấn nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa các bộ, cơ quan;

    - Nội dung chính sách quy định các biện pháp bảo vệ người dân trước thảm họa, sự cố và hỗ trợ người dân bị thiệt hại liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, cần đánh giá tác động kỹ lưỡng, thận trọng để có cơ sở quy định đầy đủ, phù hợp với các quy định của Hiến pháp, pháp luật;

    - Về chính sách đổi mới tổ chức của Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia, tiếp tục thuyết minh làm rõ 2 vấn đề: (1) Về sự cần thiết thành lập và cơ sở của việc quy định tổ chức này trong Luật; (2) Xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức này một cách phù hợp, bảo đảm rõ trách nhiệm, đúng thẩm quyền trong quản lý, giải quyết các vấn đề phòng, chống, khắc phục sự cố, thảm họa.

    - Về quy định về tình trạng khẩn cấp trong Luật Phòng thủ dân sự, cần có giới hạn cụ thể, phù hợp, bảo đảm thống nhất của hệ thống pháp luật; những nội dung mang tính dân sự nhiều hơn thì đưa vào Luật Phòng thủ dân sự, các nội dung mang tính chất quốc phòng, an ninh thì quy định trong Luật về tình trạng khẩn cấp.

    Nội dung này còn có 02 loại ý kiến khác nhau. Đa số Thành viên Chính phủ thống nhất phương án quy định tình trạng khẩn cấp như Đề nghị xây dựng Luật phòng thủ dân sự. Ý kiến khác của các Thành viên Chính phủ đề nghị giữ như quy định hiện nay. Do đó, Hồ sơ trình Đề nghị xây dựng Luật cần nêu rõ 2 phương án và lập luận cụ thể cho từng phương án.

    Giao Bộ Quốc phòng hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật; gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp vào Đề nghị của Chính phủ, bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV.

    4. Về Đề nghị xây dựng Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự

    - Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu, quan điểm và nội dung 4 chính sách của Đề nghị xây dựng Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Về từng chính sách cụ thể, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện nội dung theo hướng:

    + Xác định rõ tiêu chí phân loại công trình quốc phòng và khu quân sự; quy định rõ tiêu chí để xác định phạm vi của khu vực cấm, khu vực bảo vệ.

    + Các nội dung quản lý đối với khu vực cấm, khu vực bảo vệ liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân cần quy định cụ thể trong Luật theo yêu cầu của Hiến pháp.

    + Về chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự, cần rà soát Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và các quy định pháp luật liên quan để bảo đảm tính thống nhất; nghiên cứu bổ sung, đánh giá một số nội dung như về các điều kiện, yêu cầu của chuyển đổi, thẩm định các nội dung để chuyển đổi, trình tự, thủ tục, chi phí cho việc chuyển đổi và đề án chuyển đổi mục đích sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự.

    + Về chính sách đối với cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn có công trình quốc phòng và khu quân sự, cần quy định hài hòa, phù hợp thực tiễn, đồng thời bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc.

    - Bộ Quốc phòng hoàn thiện Hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp chung vào Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023

    5. Về Đề nghị xây dựng dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi)

    Phát triển kinh tế tập thể và hợp tác xã là chủ trương lớn của Đảng, việc hoàn thiện thể chế về kinh tế tập thể và hợp tác xã là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Chính phủ thống nhất thông qua các chính sách và Đề nghị xây dựng Dự án Luật. Bộ KH&ĐT bám sát, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, đánh giá toàn diện không gian chính sách, sự phát triển cùng với các thành phần kinh tế, loại hình tổ chức kinh tế khác, đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay; kế thừa và phát triển các mô hình tổ chức kinh tế tập thể nhất là các hợp tác xã kiểu mới thành công, tiếp thu các mô hình HTX, kinh tế hợp tác thành công trên thế giới.

    Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, rà soát toàn diện, nhận diện căn nguyên cốt lõi của các tồn tại, hạn chế phát triển của khu vực kinh tế này đã được chỉ ra trong báo cáo tổng kết Nghị quyết 13-NQ-TW về kinh tế tập thể và Tổng kết 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng dự án Luật cụ thể hóa các nhóm chính sách theo hướng:

    - Cụ thể hóa các chính sách phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là HTX, hoàn thiện các quy định về bản chất HTX, phát triển thành viên HTX bảo đảm chính sách thể hiện đúng bản chất của HTX về cả lợi ích kinh tế của thành viên, mối quan hệ hợp tác, liên kết, tự nguyện, trách nhiệm xã hội, đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội phù hợp với tình hình, xu thế phát triển kinh tế, xã hội trong tình hình mới, tạo dư địa, động lực cho kinh tế tập thể, HTX phát triển, huy động các nguồn lực cho kinh tế tập thể.

    - Hoàn thiện các quy định về loại hình Tổ chức kinh tế hợp tác, Tổ chức đại diện; nghiên cứu, khảo sát các mô hình kinh tế hợp tác ở các vùng miền trên cả nước, tham khảo kinh nghiệm các nước về tính đa dạng của các mô hình kinh tế hợp tác, cụ thể hóa chính sách, quy định rõ vị trí, vai trò của các tổ chức kinh tế tập thể phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển chung trên thế giới.

    - Hoàn thiện quy định nâng cao hiệu quả, chất lượng chính sách hỗ trợ của Nhà nước, quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, có chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn lực, ứng dụng công nghệ, tiếp cận kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, chuyển đổi s, mở rộng thị trường cho kinh tế tập thể phát triển phù hợp, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

    Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tư pháp, VPCP tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp bổ sung dự án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, tháng 10 năm 2022.

    6. Về Đề nghị xây dựng dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi)

    Chính phủ thống nhất với sự cần thiết, quan điểm, mục tiêu, đề nghị sửa đổi toàn diện Luật Đấu thầu, thông qua các chính sách và Đề nghị xây dựng Dự án Luật. Giao Bộ KH&ĐT tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ, tiếp tục rà soát, đánh giá, tổng kết toàn diện việc triển khai thi hành Luật; khắc phục triệt để việc đấu thầu hình thức, hoàn thiện quy định cơ chế đấu thầu hiệu quả, cạnh tranh, công khai, minh bạch, hiệu quả kinh tế đồng bộ với cơ chế quản lý, kiểm soát, kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu; tránh thất thoát, lãng phí NSNN, tài sản nhà nước, ngăn chặn, xử lý tiêu cực, tham nhũng; bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.

    Về hoàn thiện quy định cụ thể hóa các chính sách đề nghị xây dựng dự án Luật, Chính phủ giao Bộ KH&ĐT:

    - Xác định rõ phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc áp dụng Luật Đấu thầu, bảo đảm đồng bộ với quy định của pháp luật về đất đai, đầu tư, pháp luật liên quan về đấu giá đất, đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư, quy định áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm đồng bộ của hệ thống pháp luật và khả thi.

    - Hoàn thiện các quy định cụ thể hóa chính sách về các hình thức lựa chọn nhà thầu, quy định rõ các trường hợp đấu thầu và chỉ định thầu, lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt... quy định cụ thể về điều kiện áp dụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, rõ trách nhiệm của người quyết định chỉ định thầu, hình thức lựa chọn nhà thầu, người phê duyệt hồ sơ mời thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư...

    - Quy định đơn giản hóa quy trình, thủ tục hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, giảm thời gian, chi phí trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm tính độc lập, khách quan, cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả; quy định rõ thẩm quyền, cá thể hóa trách nhiệm của thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, kế hoạch lựa chọn nhà thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu; thực hiện triệt để đấu thầu qua mạng để giảm thủ tục, hạn chế tiêu cực trong đấu thầu.

    - Rà soát quy định nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm ngăn chặn hiệu quả, triệt để tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong hoạt động đấu thầu, quy định rõ trình tự, thủ tục, trách nhiệm thực hiện gắn với cơ chế thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát; hoàn thiện hệ thống chế tài, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật đấu thầu; hoàn thiện quy định về công bố thông tin công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình, bao gồm cả thông tin về vi phạm pháp luật đấu thầu của tổ chức, cá nhân.

    Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp bổ sung dự án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, tháng 10 năm 2022.

    7. Về dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở

    Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung dự án Luật do Bộ Nội vụ trình.

    Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến các Thành viên Chính phủ tại Phiên họp, hoàn thiện dự án Luật theo hướng:

    - Về phạm vi điều chỉnh của dự án Luật, xây dựng thành 2 phương án có sự đánh giá tác động kỹ lưỡng đối với từng phương án để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến:

    Phương án 1: Phạm vi điều chỉnh của dự án Luật bao gồm cả vấn đề thực hiện dân chủ tại doanh nghiệp được quy định mang tính nguyên tắc. Nội dung, hình thức, cách thức thực hiện dân chủ tại doanh nghiệp giao Chính phủ quy định cụ thể.

    Chính phủ thống nhất quy định theo Phương án này.

    Phương án 2: dự án Luật không điều chỉnh vấn đề thực hiện dân chủ tại doanh nghiệp.

    - Tiếp tục nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ quyền dân chủ trực tiếp của người dân cũng như chủ trương “dân thụ hưởng“; đồng thời, hoàn thiện các quy định về kiểm tra, giám sát, phối hợp trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, trên tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, dân chủ phải trong khuôn khổ pháp luật, phòng tránh các hành vi lạm dụng dân chủ.

    - Tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các văn bản quy phạm pháp luật, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến nội dung của dự án Luật bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

    Giao Bộ trưởng Bộ Nội vụ thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình, báo cáo Quốc hội về dự án Luật.

    8. Về Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân

    - Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết xây dựng, ban hành dự án Luật và 3 chính sách của Đề nghị xây dựng Luật theo đề xuất của Bộ Công an. Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, VPCP và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ tiếp tục hoàn thiện các chính sách của Đề nghị xây dựng Luật theo hướng:

    - Về chính sách tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân Công an nhân dân, phải bảo đảm phù hợp với tinh thần quy định của Bộ Luật lao động, nhưng cần tính toán, cân nhắc đánh giá tác động kỹ lưỡng mức tăng tuổi, lộ trình thực hiện đối với từng loại đối tượng cụ thể trên cơ sở làm rõ tính đặc thù của lao động trong lực lượng công an nhân dân; nếu không có tính đặc thù thì nâng lên ngang bằng mức quy định của Bộ Luật lao động.

    - Về chính sách thăng cấp bậc quân hàm cấp Tướng trước thời hạn đối với sĩ quan Công an nhân dân có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu, cần đề xuất sửa đổi, bổ sung theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết cho linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn, thời kỳ.

    - Về chính sách bổ sung một số vị trí có cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan Công an nhân dân, cần bám sát tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với việc bổ sung một số vị trí được đề nghị phong cấp hàm cao nhất là cấp Tướng.

    Bộ Công an hoàn thiện Hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp chung vào Đề nghị của Chính phủ về bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022; báo cáo UBTVQH cho phép xây dựng dự án Luật theo trình tự, thủ tục rút gọn, trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật tại kỳ họp thứ 3 theo quy trình một kỳ họp.

    9. Về Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình năm 2022

    - Chính phủ cơ bản thống nhất thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình năm 2022 do Bộ Tư pháp trình tại Tờ trình số 03/TTr-BTP ngày 11/02/2022.

    - Về Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực và Đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, động viên công nghiệp: Bộ Công Thương, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc Thường trực Chính phủ ngày 11 tháng 02 năm 2022 để tiếp tục hoàn thiện các Đề nghị xây dựng Luật, trình Chính phủ.

    - Các Bộ, cơ quan ngang bộ cần tích cực, chủ động nghiên cứu, rà soát pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ; lập Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh để khắc phục các khó khăn, vướng mắc, sửa đổi các quy định không còn phù hợp với thực tiễn theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận 19-KL/TW và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác xây dựng pháp luật thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mình; coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, không dồn đề nghị vào cuối năm.

    - Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục tổng hợp các đề nghị xây dựng pháp luật được Chính phủ thông qua tại các Phiên họp chuyên đề về pháp luật tháng 2 năm 2022, hoàn thiện Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình năm 2022.

    - Giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình năm 2022./.

     

    Nơi nhận:
    - Ban Bí thư Trung ương Đảng;
    - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
    - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
    - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
    - Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
    - Văn phòng Chủ tịch nước;
    - Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
    - Văn phòng Quốc hội;
    - Tòa án nhân dân tối cao;
    - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
    - Kiểm toán Nhà nước;
    - Ngân hàng Chính sách Xã hội;
    - Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
    - Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
    - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
    - VPCP: BTCN, các PCN,
    Trợ lý, Thư ký TTg, các PTTg;
    các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc,
    TGĐ Cổng TTĐTCP;
    - Lưu: VT.PL (3b).

    TM. CHÍNH PHỦ
    KT. THỦ TƯỚNG
    PHÓ THỦ TƯỚNG




    Phạm Bình Minh

     

     

  • Loại liên kết văn bản
    01
    Luật Tổ chức Chính phủ của Quốc hội, số 76/2015/QH13
    Ban hành: 19/06/2015 Hiệu lực: 01/01/2016 Tình trạng: Đã sửa đổi
    Văn bản căn cứ
    02
    Nghị định 138/2016/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ
    Ban hành: 01/10/2016 Hiệu lực: 01/10/2016 Tình trạng: Hết Hiệu lực
    Văn bản căn cứ
    03
    Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương của Quốc hội, số 47/2019/QH14
    Ban hành: 22/11/2019 Hiệu lực: 01/07/2020 Tình trạng: Còn Hiệu lực
    Văn bản căn cứ
    04
    Luật Thanh tra của Quốc hội, số 56/2010/QH12
    Ban hành: 15/11/2010 Hiệu lực: 01/07/2011 Tình trạng: Hết Hiệu lực
    Văn bản dẫn chiếu
    05
    Luật Giá của Quốc hội, số 11/2012/QH13
    Ban hành: 20/06/2012 Hiệu lực: 01/01/2013 Tình trạng: Đã sửa đổi
    Văn bản dẫn chiếu
    06
    Luật Hợp tác xã của Quốc hội, số 23/2012/QH13
    Ban hành: 20/11/2012 Hiệu lực: 01/07/2013 Tình trạng: Còn Hiệu lực
    Văn bản dẫn chiếu
    07
    Luật Đấu thầu của Quốc hội, số 43/2013/QH13
    Ban hành: 26/11/2013 Hiệu lực: 01/07/2014 Tình trạng: Hết Hiệu lực
    Văn bản dẫn chiếu
    08
    Luật Đất đai của Quốc hội, số 45/2013/QH13
    Ban hành: 29/11/2013 Hiệu lực: 01/07/2014 Tình trạng: Đã sửa đổi
    Văn bản dẫn chiếu
    09
    Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp của Quốc hội, số 69/2014/QH13
    Ban hành: 26/11/2014 Hiệu lực: 01/07/2015 Tình trạng: Đã sửa đổi
    Văn bản dẫn chiếu
    10
    Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, số 80/2015/QH13
    Ban hành: 22/06/2015 Hiệu lực: 01/07/2016 Tình trạng: Hết Hiệu lực một phần
    Văn bản dẫn chiếu
    11
    Luật Ngân sách Nhà nước của Quốc hội, số 83/2015/QH13
    Ban hành: 25/06/2015 Hiệu lực: 01/01/2017 Tình trạng: Đã sửa đổi
    Văn bản dẫn chiếu
    12
    Luật Quản lý, sử dụng tài sản công của Quốc hội, số 15/2017/QH14
    Ban hành: 21/06/2017 Hiệu lực: 01/01/2018 Tình trạng: Hết Hiệu lực một phần
    Văn bản dẫn chiếu
    13
    Luật Đầu tư của Quốc hội, số 61/2020/QH14
    Ban hành: 17/06/2020 Hiệu lực: 01/01/2021 Tình trạng: Hết Hiệu lực một phần
    Văn bản dẫn chiếu
  • Hiệu lực văn bản

    Hiệu lực liên quan

    Văn bản chưa có liên quan hiệu lực
  • Văn bản đang xem

    Nghị quyết 22/NQ-CP phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2022

    In lược đồ
    Cơ quan ban hành:Chính phủ
    Số hiệu:22/NQ-CP
    Loại văn bản:Nghị quyết
    Ngày ban hành:28/02/2022
    Hiệu lực:28/02/2022
    Lĩnh vực:Tư pháp-Hộ tịch
    Ngày công báo:Đang cập nhật
    Số công báo:Đang cập nhật
    Người ký:Phạm Bình Minh
    Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
    Tình trạng:Còn Hiệu lực
  • Tải văn bản tiếng Việt

Văn bản liên quan

Văn bản mới

X