QUỐC HỘI --------- Nghị quyết số: 66/2013/QH13 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ------------------------------------- |
NGHỊ QUYẾT
VỀ ĐIỀU CHỈNH MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ CHỦ TRƯƠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH THEO
NGHỊ QUYẾT SỐ 38/2004/QH11
-----------------------
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số 05/2003/QH11;
Căn cứ Nghị quyết số 49/2010/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội về dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư;
Căn cứ Nghị quyết số 38/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Quốc hội vềchủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh;
Trên cơ sở xem xét Tờ trình số 366/TTr-CP ngày 01 tháng 10 năm 2013, Báo cáo bổ sung số 434/BC-CP ngày 22 tháng 10 năm 2013 và Báo cáo giải trình số 489/BC-CP ngày 22 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ; Báo cáo thẩm tra số 1048/BC-UBKHCNMT13 ngày 28 tháng 10 năm 2013 của Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1
1. Quốc hội ghi nhận nỗ lực của Chính phủ, các địa phương và nhân dân nơi có tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 38/2004/QH11 về chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh. Công trình đường Hồ Chí Minh đã từng bước phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của cả nước; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh; góp phần xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở các khu vực, địa phương có tuyến đường đi qua. Những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh là đúng đắn.
2. Bên cạnh những kết quả đạt được, Quốc hội nhận thấy việc thực hiện công trình chưa bảo đảm tiến độ; chất lượng xây dựng, hạ tầng kỹ thuật của một số đoạn tuyến chưa bảo đảm tiêu chuẩn và yêu cầu thoát lũ; lưu lượng phương tiện ở một số khu vực còn thấp; công tác di dân, tái định cư tại một số địa phương chưa đạt yêu cầu; chậm triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội dọc tuyến làm hạn chế hiệu quả tổng hợp của công trình.
3. Nguyên nhân của những hạn chế là do công trình có quy mô lớn, địa hình phức tạp, không gian rộng, thời gian thực hiện dài trong bối cảnh nguồn lực của đất nước còn nhiều khó khăn; công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện thiếu tập trung, quyết liệt và kịp thời; việc thực hiện đầu tư còn một số yếu kém.
Điều 2. Điều chỉnh nội dung Điều 1 của Nghị quyết số 38/2004/QH11 như sau:
1. Tổng chiều dài toàn tuyến là 3.183 km, trong đó tuyến chính dài 2.499 km, nhánh phía Tây dài 684 km.
2. Hướng tuyến: Qua một số điểm khống chế chủ yếu như Phụ lục 1 kèm theo.
3. Quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật: Mặt cắt ngang đường được quy hoạch theo từng đoạn với quy mô từ 2 đến 6 làn xe; quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật từng đoạn như Phụ lục 2 kèm theo.
4. Phân kỳ đầu tư:
- Đến năm 2020: Hoàn thành các dự án thành phần như Phụ lục 3 kèm theo để nối thông toàn tuyến từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Đất Mũi (Cà Mau) với quy mô 2 làn xe;
- Sau năm 2020: Nâng cấp các đoạn tuyến theo tiêu chuẩn đường cao tốc phù hợp với Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020.
5. Nguồn vốn đầu tư để thông tuyến vào năm 2020:
- Vốn trái phiếu Chính phủ tập trung cho các dự án thành phần cấp thiết do Quốc hội quyết định;
- Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi và các hình thức đầu tư khác (BT, BOT, PPP) được sử dụng để hoàn thành các dự án thành phần còn lại;
- Cơ cấu nguồn vốn và dự toán từng dự án thành phần do Chính phủ thẩm định, phê duyệt và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội theo kế hoạch hằng năm.
Điều 3. Giao Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan phối hợp thực hiện tốt các yêu cầu nêu trong Nghị quyết số 38/2004/QH11, phù hợp với những nội dung đã được điều chỉnh trong Nghị quyết này, đồng thời thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp sau đây:
1. Khẩn trương hoàn thành dứt điểm công tác nghiệm thu và thanh, quyết toán các dự án thành phần đã hoàn thành; tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng đối với các dự án thành phần và từng đoạn tuyến, công trình. Sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong hạn mức đã được phân bổ; xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trước hết là các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan nhằm bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả đầu tư và tính bền vững của công trình; phòng, chống tham nhũng, thất thoát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2. Thực hiện việc phân kỳ đầu tư một cách khoa học, khả thi; tập trung chỉ đạo hoàn thành đồng bộ các dự án thành phần qua Tây Nguyên (Quốc lộ 14 cũ) và các dự án thành phần thuộc Dự án kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mêkông với đường Hồ Chí Minh. Huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư các đoạn tránh đô thị và các đoạn tuyến theo quy hoạch nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
3. Khẩn trương hoàn thành việc cắm mốc giới theo quy hoạch để bàn giao cho các địa phương quản lý trước năm 2015. Thực hiện các giải pháp nhằm bền vững hóa công trình, bảo đảm yêu cầu thoát lũ; xây dựng hệ thống dịch vụ và triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội dọc tuyến để phát huy hiệu quả tổng hợp của công trình.
4. Xây dựng cơ chế, chính sách và thực hiện các giải pháp cụ thể để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, quản lý và khai thác hiệu quả công trình.
5. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Dự án đường Hồ Chí Minh sau khi nối thông toàn tuyến; dự toán tổng mức đầu tư và kế hoạch triển khai Dự án giai đoạn sau năm 2020 để báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Điều 4. Hằng năm, Chính phủ báo cáo Quốc hội tình hình thực hiện Dự án. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các địa phương có đường Hồ Chí Minh đi qua trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013.
| CHỦ TỊCH QUỐC HỘI Nguyễn Sinh Hùng |