hieuluat
hoi dap

Thư viện câu hỏi

Tổng hợp các câu hỏi pháp lý thường gặp, các tình huống pháp lý thực tế gửi về Vanbanluat

Vi phạm hình thức kết hôn

Câu hỏi: Xin hỏi Vanbanluat.com: Anh A và chị B cưới nhau khi chưa đủ tuổi nên 2 người chưa đăng kí kết hôn (đã làm đám cưới và chung sống với nhau như vợ chồng được gần 3 năm). Trong khi anh A đi xuất khẩu lao động thì chị B bỏ đi theo người đàn ông khác khi chưa được sự đồng ý của bên chồng và chồng. Vậy, anh A nên giải quyết như thế nào?
 
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến hieuluat.vn, Ban tư vấn của hieuluat.vn xin trả lời bạn như sau:   

Khái niệm chung sống như vợ chồng được quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13:

“7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 cũng có quy định:

Điều 9. Đăng ký kết hôn

1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.”

Như vậy, đối với trường hợp của anh A và chị B, do 02 người không tiến hành đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ vợ chồng giữa hai người không có giá trị về mặt pháp lý mặc dù cả hai đã làm đám cưới và chung sống với nhau như vợ chồng. Lúc này, hậu quả sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, cụ thể như sau:

“Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.”

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 cũng quy định:

“Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.

Ngoài ra, khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định:

“4. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình.”

Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, anh A có thể lựa chọn các hướng giải quyết như sau:

Thứ nhất, nếu anh A muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng với chị B, 2 người có thể tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và pháp luật về hộ tịch ngay sau khi đã đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13. Khi đó, quan hệ hôn nhân giữa hai người sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Thứ hai, nếu anh A không muốn xác lập quan hệ vợ chồng với chị B thì anh A có thể yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Khi đó, Tòa án sẽ thụ lý, giải quyết và tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị B. Nếu anh A hoặc chị B có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì Tòa án sẽ giải quyết theo hướng:

- Quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con (Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13).

- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của anh A, chị B được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chị B và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập (Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13).

Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: tuvan@vanbanluat.com
X