Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến hieuluat.vn, Ban tư vấn của hieuluat.vn xin trả lời bạn như sau:
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động được quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động 2012, trong đó có trường hợp người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động (được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 38).
Về thời hạn báo trước, Khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động 2012 quy định: Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất là 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
Đối với trường hợp của bạn, công ty ra thông báo từ ngày 09/03/2019 và chính thức đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày 05/05/2019, thời hạn là 54 ngày, phù hợp với quy định trên của pháp luật.
Tuy nhiên, việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng như vậy chỉ là hợp pháp đối với người lao động bình thường. Còn chị Xuân là lao động nữ đang mang thai.
Điều 155 Bộ Luật lao động 2012 về bảo vệ thai sản với lao động nữ quy định:
Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.
Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động.
Như vậy, căn cứ vào quy định trên, việc công ty xử lý kỷ luật cũng như lập biên bản trong thời gian chị Xuân đang mang thai là sai quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, việc chị Xuân không hoàn thành công việc không phải là do lỗi chủ quan của chị, mà là do nguyên nhân khách quan là mang thai, bằng chứng là trước khi có thai chị làm việc rất tốt. Như vậy, việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với chị Xuân là trái pháp luật.