THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ------- Số: 2183/QĐ-TTg | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2016 |
-----------
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Hội nhập quốc tế;
Căn cứ Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Hội nhập quốc tế;
Xét đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
QUYẾT ĐỊNH:
Nơi nhận: - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, các Vụ: TH, KTN, KTTH, PL, Công báo; - Lưu: VT, QHQT (3).HN | THỦ TƯỚNG Nguyễn Xuân Phúc |
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội (KT - XH), xóa đói giảm nghèo và đổi mới của nước ta trong suốt 30 năm vừa qua, các thể chế tài chính tiền tệ ngân hàng khu vực và quốc tế (TCTCNHQT) đã đồng hành và có nhiều đóng góp lớn. Trong đó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn ưu đãi để hỗ trợ phát triển cho Việt Nam, hỗ trợ xây dựng thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới y tế, giáo dục, cải thiện và bảo vệ môi trường... Đồng thời, các TCTCNHQT đã đóng vai trò khơi thông, thu hút, điều phối hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ của các nhà tài trợ đa phương và song phương khác, qua đó giúp Việt Nam huy động được nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi rất lớn để tài trợ cho các chương trình phát triển KT - XH quốc gia.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường tham gia vào các TCTCNHQT vừa là nhu cầu vừa là yêu cầu đối với Việt Nam xuất phát từ nhiều yếu tố. Từ góc độ quốc tế, thế giới đang chứng kiến xu thế gia tăng toàn cầu hóa, khu vực hóa cũng như sự phụ thuộc ngày càng lớn giữa các nền kinh tế, trong đó, các TCTCNHQT đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề phát triển của toàn cầu, khu vực và mỗi quốc gia. Về phía quốc gia, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong xóa đói giảm nghèo, phát triển KT - XH, và đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình nhưng con đường phát triển phía trước của Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, rào cản, nút thắt cần phải giải quyết để có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình, củng cố nền tảng KT - XH và đảm bảo phát triển bền vững trong dài hạn. Bên cạnh đó, Chiến lược Phát triển KT - XH giai đoạn 2011 - 2020 đã đề ra nhiều mục tiêu cao, hướng tới hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục huy động được nguồn lực hỗ trợ lớn của các TCTCNHQT nhằm giải quyết được những thách thức và thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra.
Ngoài ra, các TCTCNHQT đang trong quá trình cải cách quản trị điều hành theo hướng nâng cao vai trò, vị thế, tiếng nói của các nền kinh tế mới nổi, trong đó bao gồm cả Việt Nam. Đây là cơ hội lớn ta cần nắm bắt để nângcao hình ảnh, uy tín đối với cộng đồng quốc tế, hướng tới vai trò trở thành nhà tài trợ cho các TCTCNHQT trong tương lai, đảm bảo quyền và lợi ích của Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam đã được thụ hưởng rất lớn từ sự hỗ trợ của các TCTCNHQT trong thời gian qua, do vậy, với những thành công đạt được trong phát triển KT - XH và với vị thế đã có nhiều thay đổi, đã đến lúc Việt Nam cần có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, tham gia sâu hơn cùng với các nước giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới.
Tinh thần chỉ đạo mới của Đảng về hội nhập quốc tế từ Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” và đã được cụ thể hóa bằng Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế. Để triển khai thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 31/NQ-CP ngày 13/5/2014, với Chương trình hành động nhằm tăng cường tham gia vào các thể chế tài chính, tiền tệ ngân hàng khu vực và quốc tế và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình hội nhập đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Quan điểm này đã được khẳng địnhtại Chiến lược Phát triển KT - XH 2011 - 2020 trong đó nhấn mạnh chủ trương hội nhập trong thời kỳ này là: “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ độnghội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”.
Với các yếu tố bên trong và bên ngoài như nêu trên, đây là thời điểmthích hợp để Việt Nam phải có kế hoạch và cách thức tiếp cận mới để tăng cường tham gia vào các TCTCNHQT trong giai đoạn tới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, cũng như yêu cầu nâng cao vị thế, hình ảnh củaViệt Nam trên trường quốc tế, thực hiện tinh thần Nghị quyết 22 của Đảngchủ động, tích cực hộinhập quốc tế.
Đề án được xây dựng trên cơ sở:
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 - 2020.
- Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030.
- Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020.
- Tiếp thu những ý kiến đóng góp và khuyến nghị của các bộ ngành liênquan trong quá trình xây dựng Đề án.
Nội dung của Đề án gồm 3 phần chính:
- Phần I: Tổng quan sự tham gia của Việt Nam vào các thể chế tài chínhtiền tệ ngân hàng quốc tế.
- Phần II: Tăng cường tham gia vào các thể chế tài chính tiền tệ ngânhàng quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
- Phần III: Tổ chức thực hiện.
Kế hoạch hành động thực hiện Đề án đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là một bộ phận cấu thành của Đề án.
Hiện nay, Việt Nam đang là thành viên của 6 TCTCNHQT, bao gồm: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Quốc tế (IIB), Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (IBEC) và mới đây nhất là Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) với tư cách thành viên sáng lập. Tổng quan về 6 TCTCNHQT này cũng như hiện trạng tham gia của Việt Nam vào các thể chế nêu trên được trình bày chi tiết tại phần Phụ lục của Đề án, Sau đây, Đề án sẽ tập trung vào việc đánh giá hiệu quả tham gia của Việt Nam vào các TCTCNHQT và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thành công cũng như những tồn tại mà Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để vượt qua nhằm đẩy mạnh quá trình và hiệu quả tham gia vào các thể chế này. Việc đánh giá quá trình tham gia của Việt Nam vào các TCTCNHQT được chia làm hai giai đoạn chính, trước và sau năm 1993 khi các TCTCNHQTIMF/WB nối lại quan hệ tín dụng với Việt Nam.
a) Giai đoạn 1977 - 1993 .
Ngay sau giải phóng và thống nhất đất nước, vào năm 1976, Việt Nam đã tiếp quản vị trí hội viên của IMF, WB và ADB từ Chính quyền Sài Gòn cũ đến năm 1977, Việt Nam đã trở thành hội viên của Ngân hàng Đầu tư Quốc tế (IIB) và Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (IBEC), là hai tổ chức được thành lập trong khối các nước xã hội chủ nghĩa (Hội đồng tương trợ kinh tế - khối SEV) nhằm hỗ trợ kinh tế, giao thương và thanh toán giữa các nước này.
Thời kỳ đầu, sau khi tiếp quản chân hội viên tại IMF, WB và ADB vào năm 1976 cũng như gia nhập IIB, IBEC vào 1977, Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo và nằm trong diện hưởng các nguồn vốn ưu đãi, hỗ trợ phát triển của các tổ chức này, Ngay sau khi tiếp quản vai trò hội viên, Chính phủ Việt Nam đã nhận được một loạt các khoản vay hỗ trợ ngân sách của IMF trị giá hơn 200 triệu SDR (khoảng gần 400 triệu USD tính theo tỷ giá hiện nay), giúp Chính phủ vượt qua những khó khăn ban đầu sau khi thống nhất đất nước, chưa có nguồn thu ngân sách đáng kể. Cùng thời gian này, WB đã nhanh chóng cung cấp khoản vay đầu tiên trị giá 60 triệu USD hỗ trợ phát triển nông nghiệp. Sau đó, IMF, WB và các tổ chức khác đã có các hỗ trợ về vốn và tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để xây dựng và tái thiết đất nước, khắc phục hậu quả sau chiến tranh kéo dài.
Tuy nhiên, đến năm 1985, IMF, WB và ADB đã ngừng cho Việt Nam vay do Việt Nam không hoàn trả được các nghĩa vụ nợ. Mặc dù vậy, vai trò hội viên của Việt Nam tại các tổ chức này vẫn được duy trì thông qua việc trao đổi các đoàn đánh giá kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp Việt Nam từng bước cải cách thể chế cho công cuộc phát triển kinh tế.
b) Giai đoạn 1993 - nay
Năm 1993 đánh dấu bước ngoặt quan trọng của Việt Nam trong quan hệ với các TCTCNHQT. Chính phủ Việt Nam, thông qua cơ quan đại diện là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và cơ chế khoản vay bắc cầu đã xử lý các khoản nợ tồn đọng với IMF, WB và các chủ nợ khác thời kỳ trước 1985 trong khuôn khổ xử lý nợ Câu lạc bộ Paris và Câu lạc bộ London, nhanh chóng khôi phục quyền vay vốn ở các tổ chức này.
Trong hơn 20 năm qua kể từ năm 1993, cùng với nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong quá trình phát triển KT - XH, xóa đói giảm nghèo và đạt được vị thế của nước thu nhập trung bình thấp, các TCTCNHQT đã có nhiều đóng góp nổi bật và ý nghĩa to lớn như: Khơi thông, cung cấp và điều phối các nguồn vốn quốc tế cho Việt Nam; đồng hành và ủng hộ Việt Nam trong quá trình phát triển KT - XH; hỗ trợ cải cách cơ chế chính sách, thể chế và tư vấn chính sách; hỗ trợ xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng KT - XH; và chuyển giao công nghệ và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
- Khơi thông, cung cấp và điều phối quan hệ tín dụng quốc tế
Bên cạnh việc xử lý nợ quá hạn của Việt Nam với WB, IMF và các chủ nợ khác cũng như nối lại quan hệ của các tổ chức này với Việt Nam, ngay tại Hội nghị bàn tròn về viện trợ cho Việt Nam tổ chức tại Paris năm 1993 do WB khởi xướng và chủ trì, WB/IMF đã chủ trì và thuyết phục các nhà tài trợ cho Việt Nam vay 1,8 tỷ USD để phục hồi nền kinh tế. Sau đó, cùng với việc khôi phục lại quan hệ tín dụng bình thường với Việt Nam và giúp Việt Nam gỡ bỏ nút thắt, khơi thông dòng vốn tín dụng quốc tế và vốn ODA cho Việt Nam, các TCTCNHQT đã luôn đóng vai trò đầu tàu, đồng hành và điều phối các nguồn tín dụng quốc tế, góp phần quan trọng hỗ trợ Việt Nam thực hiện thành công các chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển KT- XH.
Trong hơn 20 năm qua kể từ năm 1993, thực hiện đường lối hội nhập và chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, dưới sự hỗ trợ của các TCTCNHQT, ta đã tích cực huy động nguồn lực phát triển lớn từ các nhà tài trợ song phương và đa phương cho các chương trình phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, trong đó số tiền từ các TCTCNHQT lên tới 34,54 tỷ USD, chiếm 39% tổng số hơn 90 tỷ USD vốn ODA của các nhà tài trợ cho Việt Nam (bình quân đạt hơn 4 tỷ USD/năm trong suốt 20 năm qua). Việt Nam luôn là một trong những nước nhận được hỗ trợ lớn nhất của WB và ADB.
Bên cạnh đó, các TCTCNHQT đã tích cực phối hợp với Chính phủ Việt Nam tổ chức thành công các Hội nghị Tư vấn các nhà Tài trợ trước đây, và nay là Diễn đàn Đối tác Phát triển nhằm giúp Chính phủ hoàn thiện cơ chế, thể chế chính sách, đồng thời huy động được nguồn lực hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho các chương trình phát triển KT - XH từng thời kỳ. Sự thay đổi về hình thức hợp tác này thể hiện sự thay đổi về chất trong quan hệ của Việt Nam với các TCTCNHQT, chuyển dần từ quan hệ vay mượn sang đối tác và đối thoại, trong đó vai trò làm chủ và tinh thần chủ động của Việt Nam đã được nâng cao. Cơ chế hợp tác chặt chẽ và hiệu quả này đã giúp đưa nguồn lực về vốn, kinh nghiệm và chuyên môn quý giá của các TCTCNHQT và các nhà tài trợ song phương và đa phương khác đến những lĩnh vực ngành, nghề, vùng miền có vai trò quan trọng chiến lược, phù hợp với mục tiêu hỗ trợ của các nhà tài trợ cũng như chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ Việt Nam.
Bảng 1: Số liệu các khoản vay IMF dành cho Việt Nam
(Đơn vị: Triệu USD)
Tên khoản vay | Ngày ký kết | Khoản vay cam kết | Khoản giải ngân |
1. Chuyển đổi hệ thống (STF) | 06/10/1993 | 34 | 34 |
2. Dự phòng (SBA) | 06/10/1993 | 157 | 118 |
3. Điều chỉnh cơ cấu mở rộng (BSAF) | 11/11/1994 | 535 | 360 |
4. Tăng trưởng và Xóa đói Giảm nghèo (PRGF) | 13/04/2001 | 368 | 158,8 |
Tổng cộng | | 1.094 | 670,8 |
- Cải cách cơ cấu, thể chế và tư vấn chính sách
IMF và WB là tổ chức đi đầu trong việc tài trợ cho các chương trình tái cơ cấu, cải cách thể chế, chính sách ở Việt Nam. Trong thời kỳ từ 1993 - 2000, các khoản vay chương trình mà IMF và WB thực hiện đã hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam thực hiện các chương trình cải cách kinh tế, cải cách khu vực công với sự hỗ trợ cả từ tài chính và tư vấn chính sách đi kèm đã giúp Chính phủ Việt Nam đẩy nhanh các chương trình cải cách cơ cấu kinh tế, hướng tới mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và thể chế, giúp tạo tiền đề cho các chương trình phát triển kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Có thể kể tên một số chương trình khoản vay có dấu ấn trong thời kỳ này như Khoản vay chuyển đổi hệ thống (STF-1993), Khoản vay điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF-1994) của IMF, Chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế của WB (SAC-1 và SAC-2, 1994-1996).
Giai đoạn sau khủng hoảng tài chính Châu Á 97-98, IMF/WB đã đi đầu trong việc hỗ trợ Việt Nam đẩy mạnh cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, phù hợp với nấc thang phát triển, định hướng, chiến lược, ưu tiên của Chính phủ trong từng thời kỳ thông qua các Chương trình Tăng trưởng và Giảm nghèo(PRGF) của IMF, chuỗi 10 Chương trình Tín dụng Hỗ trợ Giảm nghèo (PRSC), Chương trình Cải cách Đầu tư công (PIR), và chuỗi 03 Chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh và quản lý kinh tế (EMCC). Thông qua các chương trình này, các TCTCNHQT đã tạo và duy trì động lực cải cách cho Việt Nam, đồng thời cung cấp nguồn lực tài chính và kinh nghiệm, tư vấn chính sách cho Chính phủ trong quá trình thực hiện, triển khai các chương trình cải cách. Sự phát triển về hình thức, nội dung của các chương trình tín dụng nêu trên cho thấy sự thay đổi về chất của nền kinh tế Việt Nam qua thời gian, từ những hành động/yêu cầu cải cách cơ cấu cơ bản từ WB/IMF trong ESAF, SAC sang sự chủ động đối thoại chính sách của Việt Nam với các TCTCNHQT trong các chương trình PRSC, PIR, EMCC nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập và mở cửa.
Bên cạnh các chương trình cải cách cơ cấu, các TCTCNHQT đã tích cực tham gia vào các chương trình xây dựng thể chế, xây dựng quy định pháp luật, tăng cường năng lực cho các cơ quan Chính phủ Việt Nam thông qua các đoàn hỗ trợ kỹ thuật (HTKT) trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, thống kê, quản lý tài chính tiền tệ, đưa vào áp dụng tại Việt Nam các kinh nghiệm và thông lệ quốc tế phù hợp với trình độ phát triển của từng thời kỳ, giúp dần từng bước xây dựng nền tảng kinh tế vĩ mô và định hướng phát triển, giúp cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và từng bước nâng cao đời sống của người dân.
Ngoài ra, sự hỗ trợ của các TCTCNHQT còn lồng ghép, đan xen các hình thức kết hợp giữa tín dụng với tư vấn chính sách trong các chương trình chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển ngành, qua đó góp phần đưa cơ chế chính sách đi vào đời sống.
Hình 1: Số lượng HTKT của IMF cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 8/2016
- Xây dựng cơ sở hạ tầng KT - XH
Nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế luôn đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội nhằm tạo điều kiện thu hút đầu tư, thương mại và đáp ứng với nhu cầuphát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng ngân sách của Chính phủ hàng. Tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi so với vốn đầu tư từ ngân sách của Chính phủ cho các lĩnh vực này luôn ở mức cao: Năng lượng 19%; cấp thoát nước và phát triển đô thị 17%; giao thông vận tải 27%; y tế 20%; giáo dục và đào tạo 16%. Ngoài việc cung cấp nguồn tài chính để trực tiếp đầu tư, các tổ chức tài chính quốc tế còn cung cấp các hỗ trợ để tạo môi trường chính sách và thể chế cho khu vực tư nhân tham gia theo các hình thức Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao (BOT), Xây dựng - Chuyển giao (BT), Hợp tác Công - tư (PPP)...
Các tuyến đường cao tốc huyết mạch của đất nước (như Quốc lộ 1A, cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, cao tốc Nội Bài - Lào Cai, tuyến, cao tốc Giầu Dây - Phan Thiết), giao thông đường thủy nội địa, đường sắt được cải tạo để từng bước đạt chuẩn quốc tế, góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. 94% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm xã, và các tuyến đường liên tỉnh thành và giao thông nông thôn được nâng cấp nhằm phục vụ cho phát triển KT - XH ở địa phương và giải quyết các vấn đề về an toàn giao thông đường bộ. Nguồn điện và hệ thống đường dây, trạm phân phối, lưới điện truyền tải được cải tạo, nâng cấp để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Công suất phát điện đã tăng gấp 2 vào năm 2010 so với năm 2005, qua đó đã góp phần cho 95% dân số được sử dụng lưới điện quốc gia, trong đó đặc biệt các hộ nghèo vùng nông thôn được sử dụng điện với chất lượng tốt và giá cả hợp lý hơn. Chính sách và thể chế ngành điện được từng bước hoàn thiện theo hướng hình thành thị trường sản xuất và cung cấp điện cạnh tranh. Diện mạo các đô thị lớn được nâng cấp, chỉnh trang đồng bộ, đảm bảo hệ thống cấp thoát nước và xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn ở các thành phố lớn và trung tâm các huyện, thị xã, góp phần tạo dựng các đô thị văn minh, lịch sự và phù hợp với xu thế phát triển xanh.
Công tác khám chữa bệnh tại hầu hết các địa phương vùng sâu, vùng xa được cải thiện vượt bậc, qua đó tăng cường khả năng tiếp cận của người dân với các dịch vụ y tế thiết yếu, góp phần nâng cao chất lượng và điều kiện sống của nhân dân, tăng tuổi thọ trung bình tăng từ 66 lên 72 tuổi. Các cấp học từ giáo dục mầm non đến đại học đều được tập trung hỗ trợ, qua đó đã góp phần nâng tỷ lệ nhập học của trẻ mầm non lên 85% vào năm 2016 để chuẩn bị tốt nhất cho trẻ trước khi vào lớp 1. Toàn bộ 36 tỉnh tham gia Chương trình giáo dục cho mọi người đã được nâng cấp cơ sở vật chất, đào tạo giáo viên và hoàn thiện giáo trình cho việc dạy và học cả ngày, xây dựng chương trình, đào tạo giáo viên để đảm bảo mang lại cho hàng trăm ngàn trẻ em từ lớp 1 đến lớp 5 được. Các trường Đại học Việt Đức, Đại học Việt Pháp và Đại học Việt - Nhật đã được đầu tư nâng cấp thành các trường chuẩn quốc tế để đào tạo cho hàng chục ngàn sinh viên mỗi năm, góp phần tăng chất lượng giáo dục đại học cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của các TCTCNHQT được đánh giá cao trong việc phát triển cơ sở hạ tầng tài chính, đặc biệt là phát triển hệ thống thanh toán và mạng lưới tài chính vi mô phục vụ thanh toán chuyển tiền trong cả nước, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền và tài trợ vốn cho nền kinh tế (kể cả các khu vực vùng sâu vùng xa), qua đó góp phần nâng cao uy tín, lòng tin của các nhà tàitrợ, nhà đầu tư, giúp thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, thị trường tiền tệ, thị trường vốn và trái phiếu đã được hình thành với sự hỗ trợ tích cực của các TCTCNHQT giúp xây dựng hệ thống dịch vụ tài chính phục vụ cho phát triển kinh tế.
Bảng 2: Tổng tài trợ của WB cho Chính phủ Việt Namgiai đoạn 1993 - 2015
Lĩnh vực | Số dự án | Số vốnvay | Số vốn giải ngân |
Giá trị (Triệu USD) | Tỷ trọng (%) | Giá trị (Triệu USD) | Tỷ trọng (%) |
Năng lượng | 21 | 4.183,21 | 20,00% | 3.166,00 | 22,0% |
Nông nghiệp và Môi trường | 40 | 3.529,00 | 17,0% | 2.350,00 | 16,3% |
Giao thông và Công nghệ thông tin | 25 | 3.174,00 | 16,00% | 1.961,00 | 13,6% |
Hỗ trợ ngân sách và đầu tư công | 18 | 3.160,00 | 16,00% | 3.023,00 | 21,0% |
Đô thị, cấp nước và môi trường | 20 | 3.080,00 | 15,00% | 1.616,00 | 11,2% |
Tài chính ngân hàng | 13 | 1.294,00 | 6,00% | 1.132 | 7,9% |
Giáo dục | 15 | 1.213,00 | 6,00% | 788,00 | 5,4% |
Y tế và an sinh xã hội | 11 | 727,00 | 4,00% | 375,00 | 2,6% |
Tổng | 163 | 20.361,00 | 100% | 14.411,00 | |
Bảng 3: Tổng tài trợ của ADB cho Chính phủ Việt Nam (bao gồm khoản vay, viện trợ và HTKT)
Lĩnh vực | Số lượng dự án/chương trình, hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại | Giá trị (triệu USD) | Tỷ trọng % |
| 1968-2015 | | 1968-2015 |
Nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên | 95 | 1.573,40 | 10,35 |
Giáo dục | 41 | 937,86 | 6,17 |
Năng lượng | 53 | 2.703,55 | 17,78 |
Tài chính ngân hàng | 52 | 809,64 | 5,33 |
Y tế và an sinh xã hội | 36 | 489,72 | 3,22 |
Công nghiệp và thương mại | 15 | 202,10 | 1,33 |
Khu vực công | 83 | 1.622,81 | 10,67 |
Giao thông và Công nghệ thông tin | 81 | 5.098,95 | 33,54 |
Cấp nước, hạ tầng và dịch vụ đô thị khác | 51 | 1.609,97 | 10,59 |
Đa ngành | 7 | 155,20 | 1,02 |
TỔNG | 514 | 15.203,20 | 100 |
- Chuyển giao công nghệ và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Qua các hoạt động tài trợ, hợp tác phát triển, các TCTCNHQT đã chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm và chuyên môn cho các cán bộ đối tác Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Quá trình làm việc, tương tác của cán bộ quản lý nhà nước với các chuyên gia của các TCTCNHQTtrong khuôn khổ các dự án hỗ trợ của các tổ chức này đã giúp các cán bộ nâng cao trình độ, tiếp thu kiến thức, học hỏi kinh nghiệm và cách thức, kỹ năng làm việc, từng bước nâng cao năng lực của cán bộ các bộ ngành và cơ quan Chính phủ.
Bên cạnh đó, hoạt động đào tạo, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực luôn luôn là ưu tiên hàng đầu của các TCTCNHQT. Các hình thức xây dựng năng lực cho đối tác do các TCTCNHQT tổ chức gồm nhiều hình thức, từ việc tham gia vào các hoạt động, sáng kiến của các TCTCNHQT với tư cách hội viên cho đến việc cử đại diện sang các TCTCNHQT, cử cán bộ sang thực tập, đào tạo tại các tổ chức này nhằm tăng cường kiến thức, kinh nghiệm và hiểu biết về các vấn đề và thông lệ quốc tế, khai thác tốt vị thế, vai trò của Việt Nam.
Ngoài những đóng góp trên, hơn 20 năm qua, IMF, WB và ADB đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo bằng nguồn vốn của các tổ chức này cho một số lượng lớn các cán bộ thuộc các cơ quan Chính phủ, góp phần nâng cao năng lực của lực lượng cán bộ của Việt Nam. Đa số các cuộc đào tạo của 3 tổ chức này thường qua hình thức đào tạo trung và ngắn hạn cả trong và ngoài nước, cũng như các cuộc hội thảo về rất nhiều chủ đề khác nhau. Chỉ xét riêng về đào tạo, đến nay IMF đã đào tạo cho hơn 1500 lượt cán bộ theo các chương trình ngắn hạn và dài hạn trong các lĩnh vực liên quan. Với số lượng đào tạo hàng năm tại các tổ chức quốc tế, các trường đại học lớn trên thế giới (bằng học bổng do các tổ chức quốc tế này cấp), số lượng các hội thảo, các khóa đào tạo mà các tổ chức này tổ chức hoặc phối hợp tổ chức cho các cán bộ Việt Nam và các lĩnh vực mà các khóa đào tạo đã đề cập đến, có thể thấy được sự cải thiện về kỹ năng và năng lực của đội ngũ cán bộ nhà nước trong hơn 20 năm qua có sự đóng góp không nhỏ của các tổ chức này.
Hình 2:Số lượng học viên Việt Nam tham gia đào tạo ngắn hạn của IMFgiai đoạn 1993 - 2/2016
Như vậy, sau hơn 30 năm đổi mới và hơn 20 năm nối lại quan hệ tín dụng với 3 tổ chức quan trọng là IMF, WB và ADB, ta có thể khẳng định Việt Nam đã tham gia tích nực và hiệu quả vào các TCTCNHQT, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong từng giai đoạn phát triển, đã phát huy và tranh thủ được tối đa nguồn lực và sự trợ giúp quý báu của cộng đồng quốc tế cho công cuộc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tạo nền tảng quan trọng cho quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế và tiến đến mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những thành tựu to lớn đạt được trong hai thập kỷ qua, đặc biệt là về xóa đói giảm nghèo và các mục tiêu thiên niên kỷ khác, đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Để đạt được kết quả đó, nội lực và nỗ lực trong nước của Chính phủ và nhân dân Việt Nam là yếu tố then chốt, sự hỗ trợ quý báu của các TCTCNHQT và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đóng vai trò quan trọng. Các TCTCNHQT không chỉ khơi thông nguồn vốn quốc tế, mang đến cho Việt Nam nguồn lực ưu đãi lớn, mà cả các kinh nghiệm, thông lệ và mô hình phát triển quốc tế, tư vấn chính sách cho cải cách cơ cấu, nâng cao năng lực thể chế, phát triển nguồn nhân lực, năng lực cạnh tranh, hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (cả phần cứng và phần mềm). Kết quả là đến nay, Việt Nam đã bước đầu tham gia vào Nhóm nước thu nhập trung bình và chuẩn bị bước vào thời kỳ phát triển mới với những cơ hội và thách thức mới.
Sau hơn 20 năm tham gia các TCTCNHQT với vai trò là nước hội viên và quốc gia thụ hưởng hỗ trợ, với các kết quả và đóng góp của các TCTCNHQT như nêu trên cho công cuộc phát triển KT - XH của Việt Nam,ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm thành công cần tiếp tục phát huy cũng như những vấn đề chưa làm được như mong muốn và cần đẩy mạnh hơn nữa trong giai đoạn tới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, yếu tố quyết định đến sự thành công này là Việt Nam đã phát huy được vai trò làm chủ trong quan hệ với các TCTCNHQT. Để đạt được điều đó, ta đã chủ động, tích cực nghiên cứu, hiểu biết sâu về các TCTCNHQT cả về cơ chế, chính sách, các công cụ cho vay..., để từ đó kịp thời nắm bắt cơ hội, đưa ra các đề xuất, định hướng hợp tác với các TCTCNHQT nhằm huy động nguồn lực về vốn và tri thức cho phát triển KT - XH. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam và các TCTCNHQT đã linh hoạt điều chỉnh các quy trình, cơ chế, chính sách nhằm hài hòa hóa thủ tục, đáp ứng yêu cầu, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi bên để đảm bảo hiệu quả hỗ trợ cao nhất.
Thứ hai, đối thoại chính sách giữa Chính phủ Việt Nam và các TCTCNHQT luôn là kênh thông tin và phối hợp hiệu quả để giúp định hướng nguồn lực của cộng đồng quốc tế phù hợp với mục tiêu, ưu tiên trong các chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển KT - XH của Việt Nam, đảm bảo hiệu quả hỗ trợ cao nhất. Thông qua đó, cơ chế điều phối giữa Chính phủ với các TCTCNHQT cũng như giữa các nhà tài trợ quốc tế song phương và đa phương đã được thiết lập và tổ chức hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lắp. Từ đó các bên đã luôn lắng nghe, nâng cao hiểu biết, sự minh bạch và lòng tin lẫn nhau, và vị thế đối thoại của Việt Nam đã được nâng cao dần trong quan hệ hợp tác với các TCTCNHQT. Kết quả là điều này lại quay lại càng giúp phát huy vai trò làm chủ của Việt Nam, nâng cao năng lực xây dựng vàhoạch định chính sách.
Các bài học kinh nghiệm và yếu tố thành công nói trên là kết quả của quá trình tích lũy lâu dài và rất khó khăn mới đạt được mà Việt Nam cần phải duy trì và tiếp tục phát huy trong giai đoạn tới. Đây cũng là yếu tố then chốt góp phần thành công trong việc: Huy động được nguồn lực rất lớn các TCTCNHQT, luôn là một trong những nước dẫn đầu về tiếp nhận hỗ trợ tài chính của các TCTCNHQT; sử dụng hiệu quả nguồn lực hỗ trợ phát triển và trở thành hình mẫu cho cộng đồng quốc tế về tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nguồn hỗ trợ quốc tế được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Mặc dù vậy, ta vẫn tự nhận thấy hiệu quả hấp thụ vốn của Việt Nam vẫn chưa cao được như mong muốn của các bên và có thể nâng cao hơn nữa, và vai trò và vị thế của Việt Nam tại các TCTCNHQT chưa tương xứng với tiềm năng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Thứ nhất, hiệu quả hấp thụ vốn vẫn còn hạn chế. Trước đây, tỷ lệ giải ngân của các nhà tài trợ lớn đạt thấp hơn so với trung bình của khu vực. Tuy nhiên, nhờ có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, tỷ lệ giải ngân đã được cải thiện đáng kể. Ví dụ: Trước đây, tỷ lệ giải ngân của các khoản vốn vay WBđạt thấp, khoảng 11 - 13% trong giai đoạn 2009 - 2011 (trong khi mức trung bình của khu vực là 15%). Đến năm 2015, tỷ lệ này đạt 20,6%, cao hơn mức trung bình 19% của khu vực. Mặc dù đã có nhiều cải thiện nhưng tỷ lệ giải ngân vẫn chưa đạt được kỳ vọng như mong muốn.
Nguyên nhân của vấn đề này một phần do chưa có chiến lược quy hoạch tổng thể về phân bổ vốn ưu tiên, công tác xây dựng và lập kế hoạch sử dụng vốn và điều phối giữa các nhà tài trợ còn chưa thực sự hiệu quả, quy trình thủ tục còn rườm rà, chưa được hài hòa hóa đầy đủ. Do vậy, tình trạng các dự án có thiết kế khá giống nhau và bị trùng lắp còn diễn ra. Bên cạnh đó, năng lực xây dựng, triển khai chương trình/dự án có hỗ trợ của nước ngoài còn hạn chế, không sát với thực tế dẫn đến ở nhiều dự án/chương trình, tiến độ không được đảm bảo, công tác quản lý ODA còn khó khăn do cán bộ phụ trách ODA còn làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên không chuyên tâm. Ngoài ra, nguồn vốn hỗ trợ còn phân tán, không đồng đều giữa các khu vực địa lý cho thấy việc phân bổ nguồn lực còn chưa hiệu quả, còn tình trạng chạy dự án và thiếu vắng chiến lược phát triển vùng miền, chiến lược phát triển các ngành nghề, lĩnh vực trong trung và dài hạn.
Thứ hai, trong bối cảnh thế và lực của Việt Nam đã có nhiều thay đổi, nên ta cần có tầm nhìn dài hạn và quá trình chuẩn bị lâu dài để sẵn sàng nắm bắt những cơ hội khi phát sinh khi tham gia các TCTCNHQT. Bên cạnh đó, như đề cập ở trên, trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã thụ hưởng rất nhiều từ sự hỗ trợ của các TCTCNHQT và giờ đây, với vị thế và tiềm lực cải thiện nhanh và mạnh trong thời gian gần đây, đã đến lúc Việt Nam cần chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, tham gia sâu rộng hơn vào các vấn đề khu vực và toàn cầu, chung tay góp phần hỗ trợ các quốc gia kém phát triển hơn. Để làm được điều này, vai trò, vị thế, tiếng nói của Việt Nam tại các TCTCNHQT cần được nâng cao.
Thứ ba, vị thế góp vốn và quyền bỏ phiếu của Việt Nam nói chung tại các TCTCNHQT như IMF, WB và ADB còn ở mức khiêm tốn (Bảng 4), vì vậy, hiện diện chính thức của Việt Nam tại các tổ chức này rất thấp, số người Việt Nam làm việc tại các TCTCNHQT rất nhỏ, chủ yếu tập trung ở văn phòng đại diện của các tổ chức này tại Việt Nam, số người Việt làm việc tại trụ sở chính của các tổ chức này và số cán bộ Việt Nam sang biệt phái, thực tập tại đây cũng rất ít. Điều này đã: Hạn chế sự tham gia của Việt Nam vào quá trình xây dựng chính sách, ra quyết định ở các tổ chức này; hạn chế khả năng bảo vệ quyền lợi quốc gia đối với các vấn đề quan trọng, nhất là trong bối cảnh các tổ chức như IMF, WB, ADB đều đang cải cách cơ cấu quản trị điều hành để cho phép các nước đang phát triển có vai trò, vị thế và tiếng nói lớn hơn. Nguyên nhân của tồn tại này một phần là do quy định của các TCTCNHQT này về việc vốn góp phải tương xứng với quy mô nền kinh tế cũng như khả năng đóng góp của Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu tăng vốn góp bằng hình thức giấy nhận nợ.
Do vậy, trong thời gian tới với những thay đổi về thế và lực của Việt Nam như hiện nay, quan hệ của Việt Nam với các TCTCNHQT sẽ chuyển sang một bước ngoặt mới tương xứng với vai trò, vị thế mới của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Từ những kinh nghiệm trên, có thể thấy, để có thể tham gia sâu hơn vào các TCTCNHQT, bên cạnh việc phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm chưa làm được như nêu trên, ta cần: sẵn sàng nắm bắt cơ hội ngay khi có thể; và có định hướng dài hạn và định vị được vai trò, vị thế của Việt Nam tại các TCTCNHQT để từ đó có bước chuẩn bị kỹ càng về con người và vốn để chuẩn bị sẵn sàng ngay khi cơ hội đến, tiến tới có những vị trí cao hơn tại các tổ chức quốc tế (về nhân sự) cũng như vị thế cao hơn tại các tổ chức này (vai trò nhà tài trợ), khai thác tối đa lợi ích từ việc tham gia các TCTCNHQT.
Bảng 4: Cổ phần và quyền bỏ phiếu của Việt Nam tại các TCTCNHQT
| Cổ phần | Tỷ lệ phiếu bầu | Vị trí tại tổ chức (về tỷ lệ nắm giữ cổ phần) |
IMF | 0,193% tổng khối lượng cổ phần (460,7 triệu SDR) | 0,212% tổng số quyền bỏ phiếu | Đứng thứ 6/13 trong Nhóm Đông Nam Á |
WB | 0,18% tổng khối lượng cổ phần | 0,2% tổng số quyền bỏ phiếu | Đứng thứ 5/11 trong Nhóm Đông Nam Á; Đứng thứ 62/188 nước hội viên |
ADB | 12.076 cổ phần (chiếm 0,341% tổng khối lượng cổ phần) | 0,571% tổng số quyền bỏ phiếu | Đứng thứ 21 trong nhóm thành viên khu vực Châu Á; Đứng thứ 29/67 nước thành viên |
IIB | 0,36% tổng vốn điều lệ 1,21% tổng vốn điều lệ thực góp | 1 phiếu bầu (Hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng 1 phiếu/1 nước) | Đang sửa đổi Hiệp định và Điều lệ Ngân hàng: Chuyển từ nguyên tắc bình đẳng 1 phiếu bầu/1 nước sang cơ chế biểu quyết theo tỷ lệ góp vốn, quyền bỏ phiếu của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng đáng kể |
IBEC | 0,35% tổng vốn điều lệ 0,38% tổng vốn điều lệ thực góp | 1 phiếu bầu (Hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng 1 phiếu/1 nước) | |
AIIB | 0,6758% cổ phần | 0,8372% quyền bỏ phiếu | |
a) Bối cảnh trong nước và quốc tế
Thế giới đang chứng kiến nhiều thay đổi lớn trong kiến trúc hệ thống tài chính tiền tệ và thương mại quốc tế như: Sự ra đời của một loạt các TCTCNHQT mới như Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB), Ngân hàng Phát triển mới (NDB) của Nhóm BRICS; các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế Bretton Woods (WB/IMF) đang cải cách mạnh mẽ về quản trị điều hành cũng như định hướng hoạt động; xu hướng hình thành các khu vực tự do hóa thương mại mới với việc ký kết hàng loạt các FTA và sự ra đời của FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)….. Xu hướng này sẽ vẫn tiếp tục diễn ra và thậm chí được đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế các nước vẫn còn nhiều khó khăn, diễn biến phức tạp, khó lường, do đó hạn chế nguồn lực và khả năng đóng góp nguồn vốn ODA cho các TCTCNHQT.
Trong khi đó, bối cảnh mới hiện nay của Việt Nam là thế và lực của Việt Nam đến nay đã được cải thiện nhiều từ góc độ khu vực và thế giới so với giai đoạn trước đây. Đây là kết quả của quá trình cải cách, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt 30 năm qua với nhiều thành tựu phát triển đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận như Việt Nam đã chuyển sang vị thế nước có thu nhập trung bình, GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt khoảng 2.300 USD và hướng tới mục tiêu đạt 3.000 USD vào năm 2020, Điều này đòi hỏi ta phải kịp thời thay đổi cách tiếp cận trong quan hệ với các TCTCNHQT để xứng tầm với vai trò và vị thế mới của Việt Nam. Quan hệ này cần được thúc đẩy một cách toàn diện trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia, quan tâm xứng đáng đến vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời khai thác tối đa hiệu quả và khả năng hỗ trợ của các TCTCNHQT.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã kịp thời đưa ra Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 trong đó nhấn mạnh tinh thần chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ, phát huy nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài cho công cuộc phát triển KT - XH trong nước. Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng XII đã chỉ rõ yêu cầu cần “triển khai mạnh mẽ chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, đồng thời xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác từng bước mở rộng; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Đảng cũng đưa ra định hướng cần nhận thức sâu sắc hơn yêu cầu giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
Mục tiêu phát triển 5 năm tới (2016 - 2020) của Việt Nam là phải phát triển nhanh hơn, bền vững hơn giai đoạn trước với 4 trụ cột: Tăng trưởng kinh tế cao hơn, bền vững hơn, từ 6,5% - 7%/năm trên nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định (so với bình quân gần 6%/năm giai đoạn trước); phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống người dân, lấy con người là mục tiêu, là trung tâm của sự phát triển; bảo vệ và cải thiện môi trường sống; và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Do đó, Chính phủ Việt Nam nhất quán thực hiện hiệu quả 03 đột phá chiến lược: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường và thể chế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (2) Phát triển giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, gắn với ứng dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại; (3) Ban hành chính sách phù hợp trong huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực của xã hội, của tư nhân, nguồn lực trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, tiên tiến, hiện đại.
Có thể thấy con đường phát triển phía trước của Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức cũng như nút thắt cần giải quyết để đảm bảo đáp ứng nhu cầu lớn về đầu tư phát triển KT - XH, phát triển bền vững trong dài hạn. Do vậy, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế, đặt trọng tâm vào các lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống tài chính ngân hàng, tiến tới áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Điều này đòi hỏi ta không chỉ tăng cường năng lực xây dựng và hoạch định chính sách mà còn phải đẩy mạnh thu hút nguồn lực rất lớn trong giai đoạn tới về công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quốc tế cũng như nguồn vốn hỗ trợ lớn từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế trong khi tiềm lực và nguồn lực trong nước còn hạn chế, ngân sách đã đạt đến ngưỡng giới hạn cần cảnh báo.
Trong khi đó, xu hướng vốn ODA dành cho Việt Nam đang giảm dần và có thể kết thúc trong một vài năm tới khi các TCTCNHQT đã bắt đầu xem xét về việc đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước vay vốn ODA và chuyển dần sang vay vốn ưu đãi trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình từ năm 2010. Mới đây, IMF đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước nghèo thuộc diện vay vốn của Quỹ Tín thác về xóa đói giảm nghèo (PRGT). Bên cạnh đó, điều kiện vay vốn từ các TCTCNHQT khác cho Việt Nam cũng tiến gần đến điều kiện thị trường hơn như nguồn vốn thông thường (OCR) của ADB, nguồn vốn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển (IBRD) của WB. Các nhà tài trợ đa phương và song phương khác cũng sẽ bắt đầu thay đổi các điều kiện cho vay đối với Việt Nam, theo đó các nguồn vốn từ các nhà tài trợ sẽ không mang tính ưu đãi như trước đây, giảm dần và tiến tới chấm dứt các nguồn vốn giá rẻ và tăng dần các nguồn vốn theo điều kiệnthị trường. Việc này đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh trong cách tiếp cận để huy động nguồn vốn với điều kiện ưu đãi nhất có thể nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển KT - XH của mình.
Hộp 1: Nhu cầu vốn phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam Theo báo cáo của WB về Đánh giá khung tài chính cho cơ sở hạ tầng địa phương Việt Nam, với mục tiêu GDP đạt 300 tỷ USD đến năm 2020, trong đó vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng chiếm 10 - 11% thì ước tính mỗi năm Việt Nam cần khoảng 30 tỷ USD để đầu tư cho lĩnh vực này, chiếm nhiều nhất là hạ tầng giao thông, điện lực, thủy lợi... Tuy nhiên, vốn từ ngân sách nhà nước, vốn viện trợ phát triển (ODA), trái phiếu chính phủ, v.v... thường chỉ đáp ứng 50 - 60% nhu cầu. Các địa phương cũng gặp thiếu hụt trầm trọng nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng như TP Hồ Chí Minh (59%), Quảng Nam (34%) và Quảng Ninh (88%). |
b) Định hướng thời gian tới
Việt Nam cần tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn lực hỗ trợ về tài chính, về công nghệ kỹ thuật để đảm bảo nguồn lực cho nhu cầu và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đón đầu các cơ hội mới sẽ được mở ra trong tương lai thông qua nhiều khuôn khổ hợp tác. Việc ký kết 14 FTA đa phương và song phương với 55 quốc gia có nền kinh tế phát triển, trong đó có 15 nước G20, thiết lập quan hệ thương mại với hầu hết các quốc gia trên thế giới đã mở ra cơ hội phát triển mới, tạo tiền đề cho đột phá về tăng trưởng sản xuất, chế tạo trong nước, chuẩn bị cho việc gia nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới. Việc tăng cường tham gia các TCTCNHQT sẽ có tác động hỗ trợ việc triển khai các Hiệp định thương mại tự do cũng như các khuôn khổ hợp tác khác mà Việt Nam đã tham gia, qua đó giúp nâng cao vị thế và bảo vệ lợi ích của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế.
Đẩy mạnh tham gia vào các TCTCNHQT có thể được thực hiện thông qua các công cụ, hình thức hỗ trợ khác của các tổ chức này bên cạnh nguồn vốn ODA, ví dụ như tài trợ dự án, đầu tư vào khu vực tư nhân theo điều kiện thị trường hay các cơ chế giải quyết tranh chấp trong đầu tư của ICSID (Trung tâm giải quyết mâu thuẫn đầu tư), các công cụ bảo lãnh của MIGA (Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa biên) của WB. Đây đều là các nguồn lực và cơ chế phòng vệ cần có cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, đầu tư, thương mại với các đối tác quốc tế.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần có các biện pháp chiến lược nhằm tăng cường vị thế tiếng nói, hiện diện của Việt Nam tại các TCTCNHQT để tương xứng và đúng với vai trò và tầm ảnh hưởng của Việt Nam hiện nay và hướng tới trở thành nhà tài trợ trong tương lai. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, hay các nước như Thái Lan, Singapore, In-đô-nê-xia, là các nước trongkhối ASEAN cho thấy họ đã có những chiến lược và bước chuẩn bị dài để có thể trở thành nhà tài trợ của các TCTCNHQT như hiện nay. Vì vậy, Việt Nam cần nâng cao quyền bỏ phiếu bằng cách tham gia đầy đủ vào các đợt tăng vốn của các TCTCNHQT, đầu tư và chuẩn bị tốt về nguồn lực tài chính, con người và có chiến lược, kế hoạch và lộ trình dài hạn cấp quốc gia về tăng cường đưa người Việt Nam vào các TCTCNHQT. Ngoài ra, Chính phủ cần xây dựng chính sách khuyến khích sinh viên, cán bộ trẻ học tập, làm việc, thực tập nước ngoài, đặc biệt tại các tổ chức quốc tế nhằm phát triển kiến thức, chuyên môn và kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế.
Kết quả của hơn 20 năm hợp tác với các TCTCNHQT đã đưa mối quan hệ, kinh nghiệm và thành công của Việt Nam với các tổ chức này trở thành hình mẫu phát triển, cải cách và xóa đói giảm nghèo cũng như sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ phát triển. Qua nhiều diễn đàn và báo cáo, các TCTCNHQT đều đánh giá cao hiệu quả sử dụng vốn hỗ trợ của Việt Nam và muốn được đưa hình mẫu này nhân rộng ra khu vực và thế giới để khẳng định vai trò, đóng góp của các tổ chức này trong tiến trình phát triển toàn cầu nói chung, phát huy vị thế và ảnh hưởng của các TCTCNHQT trên toàn thế giới. Do đó, Việt Nam cần phát huy lợi thế quan trọng này để lan tỏa bài học kinh nghiệm thành công của mình, qua đó góp phần nâng cao vai trò, vị thế và tiếng nói tại các TCTCNHQT cũng như trên trường quốc tế.
Với kinh nghiệm hợp tác thành công nêu trên, ta cần tiếp tục phát huy trong giai đoạn tới, đồng thời, với vị thế và tiềm lực mới, Việt Nam cần chuẩn bị hướng tới trở thành nhà tài trợ phát triển nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, vị thế, tiếng nói và tầm ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều hỗ trợ cho các nước bạn bè như Lào, Campuchia, Cuba... Việt Nam cần tiếp tục tổng kết các bài học kinh nghiệm từ các hoạt động hỗ trợ này để từ đó phát huy hơn nữa nâng cao vị thế nước tài trợ của mình trong cộng đồng quốc tế.
1. Tăng cường tham gia các TCTCNHQT
a) Quan điểm
Hệ thống quản trị kinh tế tài chính toàn cầu đặc biệt là các TCTCNHQT vẫn luôn là các trụ cột quan trọng trong các hoạt động kinh tế, tài chính tiền tệ chủ chốt trên thế giới và có tác động ngày càng sâu rộng đến các nước đang phát triển như Việt Nam. Quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế của Việt Nam trong gần ba thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước, là tiền đề quan trọng cho giai đoạn hộinhập toàn diện sau này. Trong giai đoạn tiếp theo, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ sẽ tiếp tục được tăng cường và phát triển mạnh mẽ hơn.
Các TCTCNHQT hiện nay khá đông đảo và đa dạng xét cả về quy mô lẫn nội dung hoạt động trong phạm vi toàn cầu và khu vực. Chương trình nghị sự của các tổ chức này bao trùm nhiều lĩnh vực trọng yếu của đời sống thế giới, liên kết mọi thành viên trong cộng đồng quốc tế và tạo ra sự kết nối, phụ thuộc lẫn nhau. Việc tham gia và hội nhập sâu rộng vào các thể chế tài chính - tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc tế đã và đang tạo ra nhiều tác động tích cực cho quá trình hội nhập của Việt Nam, kể cả về chính trị, xã hội và kinh tế, tạo ra thời cơ và điều kiện thuận lợi cho phát triển Việt Nam về nhiều mặt,
Tham gia vào các TCTCNHQT sẽ góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự phát triển sâu rộng của các quan hệ kinh tế tài chính quốc tế, thúc đẩy tự do hóa thương mại, đầu tư, thông tin, lao động... tạo cơ hội cho Việt Nam tận dụng được thị trường thế giới, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất - kinh doanh để phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa khi Việt Nam tham gia hiệu quả các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng như toàn cầu sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường vốn và dịch vụ tài chính ngân hàng ở các thể chế và thị trường tài chính của các nước thành viên với điều kiện thuận lợi và giá cả phù hợp để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tham gia vào các TCTCNHQT tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia tích cực hơn vào các quá trình hợp tác liên kết quốc tế, tham gia thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn, thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa và bình đẳng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẽ ngày càng khẳng định vị thế của mình trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thông qua các diễn đàn tài chính tiền tệ quốc tế. Việc tham gia các tổ chức, định chế khu vực và thế giới sẽ giúp Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách tài chính tiền tệ toàn cầu, có tiếng nói được tôn trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh chấp trong khuôn khổ tổ chức, định thế quốc tế, do đó có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Quán triệt Nghị quyết 22 ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế về việc phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là thành viên cũng như xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn khác, việc tăng cường tham gia các TCTCNHQT cần nằm trong tổng thể Kế hoạch hành động của chính phủ về Hội nhập quốc tế ban hành tại Nghị quyết 31 ngày 13/5/2014, đảm bảo sự kết nối đồng bộ của các chương trình hội nhập quốc tế của các ngành và các chương trình phát triển KT - XH quốc gia.
b) Mục tiêu
- Tìm kiếm và đa dạng hóa các nguồn lực phát triển phù hợp với vị thế là nước có thu nhập trung bình, tăng cường vai trò chủ động và vị thế tham gia của Việt Nam trong quá trình xây dựng hình thành các TCTCNHQT mới, hướng đến trở thành nhà tài trợ;
- Nâng cao hiệu quả tham gia vào các TCTCNHQT, từng bước nâng cao vai trò và vị thế, tiếng nói của Việt Nam trong các thể chế này cũng như các diễn đàn khu vực, quốc tế có liên quan, tiến tới giữ các vị trí cao trong cơ cấu tổ chức và Văn phòng nhóm ở các tổ chức này;
- Phát triển năng lực hội nhập quốc tế, xây dựng nguồn lực về con người, kỹ thuật và quản lý đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế nhằm chuẩn bị tốt các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu phát triển, từng bước có các vị trí cao hơn trong các TCTCNHQT.
c) Nhiệm vụ
- Nâng cao hiệu quả tham gia các TCTCNHQT
+ Tham gia tích cực vào các hoạt động, xây dựng chính sách, sáng kiến, chương trình tăng vốn, cơ cấu lại và cải cách của các tổ chức này nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam tại các TCTCNHQT, tiến tới có được các vị trí chủ chốt như Giám đốc điều hành hoặc Giám đốc điều hành phụ khuyết tại các tổ chức này;
+ Tăng hiệu quả sử dụng các nguồn hỗ trợ từ các TCTCNHQT, đẩy mạnh tư vấn chính sách và tận dụng hợp tác kỹ thuật cho phát triển kinh tế;
+ Có kế hoạch và chiến lược tiếp cận với các nguồn vốn kém ưu đãi, thương mại và khai thác các sản phẩm khác phù hợp với vị thế của Việt Nam là nước có thu nhập trung bình; tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển;
- Tiếp cận, tham gia có chọn lọc vào các TCTCNHQT và sáng kiến thiết lập khuôn khổ hợp tác tài chính mới
+ Nghiên cứu, tiếp cận và đề xuất tham gia có chọn lọc vào các TCTCNHQT quan trọng trong việc xây dựng khuôn khổ phát triển của khu vực và thế giới nhằm bổ sung nguồn tài chính, nguồn lực phát triển nhằm tăng cường năng lực thể chế và nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế;
+ Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các TCTCNHQT khác, kể cả các sáng kiến, diễn đàn, hội nghị, nhóm công tác liên quan cũng như các hoạt động nghiên cứu phát triển, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia vào việc xây dựng những thiết chế, khuôn khổ hợp tác quốc tế và khu vực.
- Xây dựng và phát triển năng lực hội nhập
+ Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để áp dụng, triển khai và thực hiện các cam kết, nghĩa vụ của Việt Nam tại các TCTCNHQT;
+ Xây dựng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng tốt, có khả năng tham gia và có đóng góp tích cực vào hoạt động của các TCTCNHQT nhằm tăng cường sự tham gia, tiếng nói và vị thế của Việt Nam;
+ Nghiên cứu cơ chế, chính sách liên quan để đề xuất lộ trình, mức độ tham gia của Việt Nam với vai trò nhà tài trợ.
Tương ứng với ba nhiệm vụ đặt ra ở trên, Đề án đưa ra ba nhóm giải pháp cụ thể như sau:
a) Tăng cường hiệu quả tham gia các TCTCNHQT mà Việt Nam hiện là thành viên
- Tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển
+ Tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ tài chính của các TCTCNHQT
. Tích cực phối hợp với các nhà tài trợ xây dựng kế hoạch chuyển tiếp sang nguồn vốn theo điều kiện thị trường dành cho các nước sắp tốt nghiệp các khoản vay ưu đãi nhằm đảm bảo quá trình chuyển đổi thuận lợi, giảm thiểu các khó khăn, rủi ro trong quá trình chuyển tiếp;
. Xây dựng và triển khai chiến lược, đề án quy hoạch, định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn của các nhà tài trợ quốc tế, bao gồm cả các TCTCNHQT, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam theo từng giai đoạn;
. Hoàn thiện khung pháp lý theo hướng hài hòa hóa với các quy định của nhà tài trợ, và đơn giản hóa quy trình thủ tục trong quản lý và sử dụng vốn vay, triển khai thêm các mô hình đầu tư mới có sự tham gia của khu vực tư nhân để huy động nguồn lực từ các thành phần khác trong nền kinh tế nhằm tạo ra tác động lan tỏa trong việc huy động nguồn lực của các thành phần này;
. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn theo hướng đảm bảo an toàn và hiệu quả quản lý nợ công; tăng cường hiệu quả công tác lập kế hoạch và sử dụng vốn vay, quản lý và thực hiện các chương trình, dự án; bố trí đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng; chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa mô hình quản lý chương trình, dự án, tăng cường công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống tham nhũng; tăng cường rà soát (định kỳ và đột xuất) để kịp thời xử lý vướng mắc, bất cập phát sinh;
. Tăng cường khai thác và sử dụng các sản phẩm khác (ngoài vốn vay ODA và vay ưu đãi) từ các TCTCNHQT và đơn vị trực thuộc các tổ chức này nhằm huy động vốn đầu tư trực tiếp, hỗ trợ giải quyết tranh chấp nhằm bảo để có thể tăng cường khả năng tiếp cận với thị trường vốn quốc tế, cải thiện xếp hạng tín dụng quốc gia.
. Quy hoạch và khai thác nguồn lực từ các kênh đầu tư tư nhân của các TCTCNHQT để tăng cường nguồn lực phát triển KT - XH.
+ Đẩy mạnh hoạt động tư vấn chính sách
. Phát huy tính chủ động và tự chủ trong đối thoại chính sách với các TCTCNHQT về các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, quản lý kinh tế vĩ mô để tranh thủ sự đồng thuận của các TCTCNHQT đối với các chính sách quản lý, điều hành và các chương trình phát triển KT - XH khác;
. Cải thiện công tác thống kê, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô và các ngành kinh tế, cung cấp thông tin đầy đủ theo thông lệ và yêu cầu quốc tế của các TCTCNHQT;
. Phát huy truyền thông chính sách trong nước và thông qua các TCTCNHQT tuyên truyền thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách của Chính phủ, Đảng và Nhà nước cho cộng đồng quốc tế, xây dựng hình ảnh quốc gia trong khu vực và quốc tế;
. Tích cực phối hợp với các TCTCNHQT xây dựng các tài liệu nghiên cứu, phân tích về các diễn biến kinh tế trong nước cũng như trong khu vực và quốc tế cũng như các lĩnh vực chuyên sâu khác để kịp thời nắm bắt các diễn biến và xu hướng trong nước cũng như khu vực và quốc tế, phục vụ cho việc công tác xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách.
+ Tăng cường hỗ trợ kỹ thuật của các TCTCNHQT
. Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ kỹ thuật với các TCTCNHQT trong các lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công, tiền tệ, tài chính, ngân hàng và các ngành kinh tế khác...;
. Chủ động lập kế hoạch, triển khai thực hiện và tổ chức giám sát, đánh giá hiệu quả các chương trình hỗ trợ kỹ thuật với các TCTCNHQT;
. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các HTKT với các TCTCNHQT đã triển khai nhằm theo dõi, quản lý có hệ thống, tránh trùng lắp và lãng phí nguồn lực hỗ trợ; tăng cường trao đổi thông tin, báo cáo về HTKT giữa các nhà tài trợ và TCTCNHQT.
- Tăng cường vai trò, vị thế và tiếng nói tại các TCTCNHQT hiện là thành viên
+ Tăng quyền biểu quyết thông qua việc góp vốn kịp thời và đúng theo mức được phân bổ, tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức này để có vai trò lớn hơn, tiến tới nắm các vị trí chủ chốt, từ đó tăng hiện diện, đưa người Việt Nam vào các TCTCNHQT (cả về số lượng và vị trí công tác);
+ Thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ thành viên, cung cấp thông tin, báo cáo, triển khai đúng và kịp thời các cam kết của Việt Nam, dần áp dụng và triển khai các thông lệ quốc tế tốt nhất cũng như các nguyên tắc và thông lệ khác được các thành viên TCTCNHQT áp dụng rộng rãi;
+ Tích cực tham gia vào công tác hoạch định chính sách, cơ cấu lại/thay đổi của các TCTCNHQT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như đảm bảo quyền lợi hội viên của Việt Nam tại các tổ chức này;
+ Chủ động, tích cực tham gia đề xuất, xây dựng và triển khai các sáng kiến của các TCTCNHQT và các diễn đàn và tổ chức có liên quan theo hướng tăng cường tiếng nói của các nước đang phát triển, tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi quốc gia thành viên;
+ Tổ chức, tham gia tổ chức các hoạt động nghiên cứu, hội thảo, diễn đàn trong khuôn khổ các hoạt động của TCTCNHQT và các diễn đàn, tổ chức có liên quan của khu vực và quốc tế, qua đó thiết lập và phát triển quan hệ với các cơ quan quản lý các nước, tăng cường kết nối trong khu vực và quốc tế, giúp củng cố quan hệ ngoại giao đa phương.
b) Tiếp cận, tham gia có chọn lọc vào các TCTCNHQT và sáng kiến thiết lập khuôn khổ hợp tác tài chính mới
- Xây dựng kế hoạch và lộ trình tham gia vào các thiết chế của các TCTCNHQT mà Việt Nam đã là thành viên nhằm tận dụng các nguồn lực của các tổ chức này cho phát triển kinh tế;
- Kết nối với mạng lưới các hệ thống kinh tế, tài chính toàn cầu thông qua tiếp cận các tổ chức có vai trò quan trọng trong việc thiết lập khuôn khổ và giám sát hoạt động thị trường tài chính quốc tế và tài trợ phát triển:
+ Tham gia có chọn lọc vào một số tổ chức có vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ, tài chính ngân hàng thế giới;
+ Tiếp cận và tham gia vào các tổ chức tài chính khác có khả năng cung cấp nguồn lực phát triển, đặc biệt là nguồn lực về vốn, để hỗ trợ cho phát triển KT-XH.
- Chủ động, tích cực tham gia, đề xuất tham gia vào các hoạt động chương trình hợp tác và sáng kiến trong khuôn khổ đa phương và song phương và các diễn đàn khác để kết nối và phát huy vai trò tại các diễn đàn này, đồng thời tham gia tích cực vào việc thiết lập các khuôn khổ hợp tác về tài chính tiền tệ mới trong khu vực và quốc tế.
c) Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế
+ Rà soát và điều chỉnh, xây dựng mới luật và các văn bản pháp quy có liên quan để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên về công bố thông tin, báo cáo, thống kê, các chỉ tiêu vĩ mô với các TCTCNHQT và các tổ chức khác phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập, tiến tới áp dụng đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế và thông lệ áp dụng rộng rãi tại các tổ chức này;
+ Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiếp nhận hỗ trợ như các quy định quản lý nguồn vốn ODA, hỗ trợ kỹ thuật, nguồn vốn có điều kiện thị trường và các văn bản liên quan nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ từ các TCTCNHQT;
+ Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để Việt Nam có thể tham gia với vai trò nhà tài trợ.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập
+ Xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triểnnguồn nhân lực có trình độ quốc tế phù hợp với trình độ cán bộ của các tổ chức quốc tế, trong đó có các TCTCNHQT;
+ Xây dựng cơ chế, ngân sách để cử cán bộ tiềm năng tham gia học tập, công tác, nghiên cứu, thực tập, biệt phái, trao đổi chuyên gia trong khuôn khổ các chương trình hợp tác với các TCTCNHQT và các tổ chức quốc tế khác nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế;
+ Xây dựng đội ngũ chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ, ngân hàng, pháp luật, đồng thời có kiến thức về hội nhập quốc tế để đảm nhiệm các vị trí cao trong các tổ chức quốc tế và TCTCNHQT.
- Tăng cường nghiên cứu cơ chế chính sách của các TCTCNHQT để tham mưu cho Đảng và Chính phủ về việc thực hiện nghĩa vụ thành viên, đảm bảo lợi ích tối đa của Việt Nam tại các tổ chức đó;
- Chủ trì nghiên cứu, đề xuất cách tiếp cận, tham gia và tham gia mới các TCTCNHQT, biện pháp tăng cường vị thế, tiếng nói ở các TCTCNHQT mà Việt Nam là thành viên, kể cả việc trở thành nước tài trợ;
- Chủ trì, phối hợp với các bộ ngành nghiên cứu cơ chế, chính sách và đềxuất về khả năng, lộ trình Việt Nam tham gia các TCTCNHQT với tư cách nhà tài trợ;
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo cán bộ, lập ngân sách để cử cán bộ tham gia học tập, công tác, nghiên cứu, biệt phái và trao đổi cán bộ tại các TCTCNHQT;
- Phối hợp với các bộ ngành đề xuất các biện pháp để xử lý các nút thắt trong quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay từ các nhà tài trợ, trong đó có các TCTCNHQ;
- Phối hợp với các bộ ngành và các TCTCNHQT xây dựng Kế hoạch tốt nghiệp các nguồn vốn ưu đãi của các TCTCNHQT và các nhà tài trợ khác, đảm bảo kế hoạch chuyển tiếp phù hợp, đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu phát triển KT - XH và các ngành liên quan;
- Phối hợp với các bộ, ngành xây dựng cơ chế giám sát, báo cáo, chia sẻ thông tin triển khai thực hiện Đề án, cập nhật tình hình tham gia các TCTCNHQT Việt Nam hiện là thành viên và các tổ chức mới.
- Bố trí nguồn vốn ngân sách đầy đủ và kịp thời để thực hiện góp vốn, góp vốn bổ sung, tăng vốn của Việt Nam tại các TCTCNHQT, phù hợp với chủ trương, quyết định được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
- Xây dựng kế hoạch ngân sách và trả nợ phù hợp với lộ trình chuyển tiếp sang nguồn vốn thị trường của các TCTCNHQT và các nhà tài trợ, đảm bảo thực hiện kế hoạch chuyển tiếp hiệu quả, không gây sốc cho hoạt động ngân sách nhà nước;
- Bố trí đầy đủ, kịp thời ngân sách cho các hoạt động nhằm mục đích mở rộng hợp tác, tham gia sâu và rộng hơn với các TCTCNHQT, cử cán bộ sang học tập, công tác tại các TCTCNHQT nhằm xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu;
- Bố trí đầy đủ, kịp thời vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn của các TCTCNHQT để đảm bảo hiệu quả, tiến độ;
- Rà soát và sửa đổi hoặc đề xuất sửa đổi, điều chỉnh các văn bản pháp quy liên quan đến quản lý nợ công, quản lý tài chính đối với các dự án ODA và vốn vay ưu đãi, các dự án sử dụng ngân sách khác.
- Phối hợp với các bộ ngành xây dựng cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả nguồn vốn vay và nguồn lực hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế, trong đó có các TCTCNHQT
- Xây dựng chiến lược sử dụng vốn của các TCTCNHQT và đề án định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vay ưu đãi, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam theo từng giai đoạn, khuyến khích hợp tác theo hình thức đối tác công tư (PPP), làm cơ sở để vận động và huy động nguồn vốn;
- Xây dựng chiến lược, định hướng, quy hoạch về huy động và sử dụng nguồn vốn của các nhà tài trợ, trong đó lồng ghép quá trình chuyển tiếp sang nguồn vốn kém ưu đãi đảm bảo quá trình chuyển tiếp trôi chảy, không ảnh hưởng đến các chương trình đầu tư KT - XH;
- Chủ trì xây dựng, sửa đổi các quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn của các TCTCNHQT và triển khai hình thức PPP để khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào các dự án trọng điểm; xây dựng Danh mục các Chương trình, dự án ưu tiên để đẩy mạnh hoạt động PPP trên mọi lĩnh vực.
- Rà soát, điều chỉnh, ban hành mới các văn bản liên quan bảo vệ bí mật nhà nước phù hợp với nghĩa vụ công bố thông tin cho các TCTCNHQT, thỏa thuận, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;
- Phối hợp với NHNN và các cơ quan Chính phủ trong việc tham gia, tăng cường tham gia các TCTCNHQT nhằm đảm bảo an ninh tài chính, tiền tệ và phòng chống tham nhũng.
- Phối hợp, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu đối ngoại, đẩy mạnh việc tham gia của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế;
- Phối hợp với NHNN và các bộ ngành vận động các TCTCNHQT trong quan hệ song phương và đa phương khác trong việc tăng cường vị thế, tiếng nói của Việt Nam ở các tổ chức quốc tế, trong đó có các TCTCNHQT, tiếp tục dành nguồn ODA cho Việt Nam, đảm bảo quá trình tốt nghiệp bền vững và chuyển tiếp sang vốn vay ưu đãi;
- Xây dựng định hướng chung trong việc cử đại diện của Việt Nam làm việc tại các tổ chức quốc tế.
Các bộ ngành liên quan có trách nhiệm lồng ghép các mục tiêu, giải pháp của Đề án với việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của ngành do bộ mình phụ trách nhằm đảm bảo tính liên kết giữa chương trình hội nhập và lợi ích quốc gia, đồng thời phối hợp với NHNN và các cơ quan liên quan để triển khai./.
1 Bao gồm các khoản ADB cho vay chính phủ, trái quyền và các khoản hỗ trợ kỹ thuật, các khoàn đồng tài trợ trong viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật.